Lịch sử ngoại xâm liên miên, người Việt quen sống co lại, ít có khao khát ra với thế giới, hiểu thế giới.
Càng
co lại ta càng đánh mất đi khả năng phát triển, càng không đủ bản lĩnh
để ra với thế giới và hiểu thế giới – nhà văn hoá Vương Trí Nhàn luận
giải quá trình phát triển của Việt Nam trong hội nhập dưới góc độ văn
hoá.
Trong sự thích nghi có sự buông trôi bất lực
Quan
sát người Việt và dân tộc Việt Nam trong cuộc sống hội nhập hôm nay,
với một người dành nhiều thời gian nghiên cứu về Việt Nam và đặc tính
dân tộc Việt, ông có ấn tượng, suy nghĩ gì?
Nhìn
lại thời gian mấy chục năm nay, dễ thấy Việt Nam sau chiến tranh đã
trải qua một quá trình, lúc chậm lúc nhanh, nhiều lúc như là quanh co,
hỗn loạn, nhưng nhìn chung đến nay đã chạm tới một cái ngưỡng và cần lo
để chuyển sang giai đoạn mới.
Đã
đến lúc chúng ta có thể tổng kết, đánh giá cả một chu kì phát triển.
Một hướng suy nghĩ là nhìn những thành công hay vấp váp về kinh tế xã
hội dưới góc độ văn hóa, bởi con người kinh tế chẳng qua cũng chỉ là
một khía cạnh của con người Việt Nam.
Từ
chiến tranh chuyển sang hoà bình, từ chỗ tách ra để làm công việc riêng
của dân tộc đến chỗ quay trở về hội nhập với thế giới, cái quá trình ấy
là cả một khúc quanh đột ngột. Tôi ngờ rằng nhiều người lớn tuổi đã
sống hết lòng với đời sống hẳn cũng chung tâm lý như tôi, đêm nằm ngẫm
nghĩ thấy thương cho chính mình và những người thân quen xung quanh,
rộng ra là thương cho cả dân tộc.
Chiến
tranh từng bòn rút tất cả sức lực, kéo cuộc sống chậm lại. Mở cửa, ta
lại lao vào làm ăn với bất cứ giá nào, sức khỏe kém đi, con cái không
người dạy dỗ, cũng hư hỏng đi.
Nhìn cả môi trường tự nhiên lẫn môi trường xã hội đều bị xói mòn mà không khỏi xót xa.
Người
Việt xưa tới giờ khổ quá, đến khi ra với thế giới thì mắt như bị chói,
cái gì cũng thèm thuồng. Hết gồng mình lên chiến đấu nay lại gồng mình
lên để hưởng thụ. Cha mẹ cứ cái gì ngon nhất, đẹp nhất là lo dành cho
con. Trong gia đình, ta cúi mặt xuống chiều chuộng nhau mà không dám
đặt ra yêu cầu cao với nhau.
Theo
tôi, căn nguyên của cái cách ứng xử này là cảm giác tự ti, nhìn thấy
cái sung sướng vừa đến với mình nó mong manh quá, còn thế giới vẫn xa
lạ quá. Che mắt mình lại, không muốn lộ ra ở mình cái phần bất lực, bởi
tận thâm tâm, tin rằng không bao giờ đạt được cái phần nhân loại hôm
nay đã tới.
Nghịch
lý là ở chỗ do mang tâm thức tự ti đó, khi quay lại nhìn bản thân, ở
nhiều người – không ai bảo ai – sinh ra tâm lý tự huyễn hoặc. Rằng so
ra ta cũng ghê gớm lắm; rằng không có cái phần hơn hẳn thiên hạ nhưng
mình lại có cái khác: di sản thế giới (thực chất phần nhiều là di sản
thiên nhiên, đâu phải là văn hóa), văn hóa ẩm thực…
Bình
tĩnh lại để nghĩ sẽ thấy cái để Việt Nam khoe ra với thiên hạ thường
chỉ là phần trời cho mà không phải phần con người làm ra, chỉ là những
gì bản năng mà không phải là phần của trí tuệ: ta không có cuốn sách,
bức họa nào ở tầm thế giới. Trong âm nhạc, phần khó nhất của nó là hòa
âm thì nhạc Việt Nam lại kém, lấy đâu ra tác phẩm lớn.
Cái
rõ nhất và duy nhất chúng ta có thể khoe với thế giới chính là sự thích
nghi, thích nghi nên thế nào cũng tồn tại. Tôi nhớ trong Anh em
Karamazov, Dostoievski có một câu khái quát: "Tồn tại trong bất cứ điều
kiện nào là truyền thống của dòng họ Karamazov nhà ta". Người Việt Nam
cũng thế. Khó khăn đấy, nhưng chúng ta vẫn tồn tại – ta tự nhủ.
Có
điều hôm qua trong chiến tranh nghĩ thế là cần thiết, nhưng hôm nay
không đủ nữa. Đã đến lúc đặt vấn đề là tồn tại sẽ như thế nào, thế nhỡ
sự thích nghi làm cho chúng ta mòn mỏi, kém cỏi, tầm thường và hư hỏng
đi thì sao?
Làm kinh tế bằng tư duy chiến tranh
Ông
vừa hơn một lần nói tới chiến tranh. Phải ông cho rằng đó là một trong
những nguyên nhân gần dẫn tới những khó khăn kinh tế hiện nay? Nhưng
ba chục năm là thời gian quá dài, chiến tranh đã lùi vào dĩ vãng. Liệu
ta có nên cường điệu vai trò của nó?
Không, chả có gì là cường điệu cả. Ta đã ra khỏi cuộc chiến, nhưng lòng ta, cách sống, cách nghĩ của ta chưa ra khỏi.
Chiến
tranh cho phép người ta bất chấp quy luật miễn là được việc; chỉ lo
hiệu quả, còn cái giá của nó thì không cần biết. Trong chiến tranh,
nhất là chiến tranh ở Việt Nam, cứ chờ có những điều kiện cần và đủ thì
không ai dám làm gì. Phải liều. Phải duy ý chí. Cách làm đó nay vẫn
được ta áp dụng.
Nói
tóm lại, nếu trong chiến tranh ta phá với bất cứ giá nào thì nay ta xây
với bất cứ giá nào. Trên báo chí luôn có những tin đại loại cây cầu này
sang năm phá năm nay vẫn cứ thi công vì đã vào kế hoạch rồi, hoặc xây
nhà máy ào ào mà chả chú ý gì tới tác hại của nó với môi trường. Thì đó
là kiểu tư duy chiến tranh chứ còn gì nữa?!
Bản
thân chiến tranh Việt Nam lạ, không giống ai. Việt Nam thắng được trong
chiến tranh là nhờ chơi theo luật Việt Nam, tuy nhiên, trong làm kinh
tế, thì phải chơi theo luật chung của thế giới.
Những
suy nghĩ về chiến tranh còn thường xuyên đến với tôi, mỗi khi nghĩ tới
quốc nạn tham nhũng. Đọc cuốn "Những bước thịnh suy của các triều đại
Trung Quốc" của Cát Kiếm Hùng (nhà sử học Đài Loan) biết rằng trong
lịch sử nước này, tham nhũng ghê nhất là triều đại nhà Nguyên, một
chính quyền quân sự.
Nữa
là ở ta lại phổ biến hiện tượng coi ai giỏi chiến đấu thì cũng biết làm
kinh tế, nới lỏng luật pháp, dễ dãi với người có công và tuỳ tiện lấy
quyền lợi kinh tế trả ơn cho người góp phần tạo nên thắng lợi trong
chiến tranh… tham nhũng là tránh sao nổi.
Tâm lý tiểu nông tư duy tiểu nông
Ngoài nguyên nhân chiến tranh, để cắt nghĩa tình hình hiện thời, theo ông đâu là những nguyên nhân lịch sử văn hoá sâu xa hơn?
Trước
khi Pháp sang, "cả nước sống leo lắt trong một tình trạng thôn dã" –
tôi đọc được câu này trong một cuốn sách mới dịch in gần đây, cuốn
"Người Pháp và người An Nam bạn hay thù?" của Philippe Devillers.
Tôi
chia sẻ với cách nhìn của nguyên trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Thương
mại Việt – Mỹ, ông Nguyễn Đình Lương, rằng tâm lý tiểu nông vẫn còn ăn
sâu trong cách đi ra thế giới của người mình. Và cả cách tư duy nữa: tư
duy tiểu nông.
Tôi
trộm nghĩ, ở ta, một khi nếp sống làng xã còn ngự trị, không có triết
học ghê gớm cao xa gì tồn tại nổi, chỉ tư tưởng tiểu nông chi phối tất
cả.
Nhìn sang nước Trung Quốc, nông thôn ở họ cũng nặng nề, sao họ vẫn phát triển tốt?
Vì
tư tưởng nông dân ở đó tuy mạnh (bắt nguồn từ tầm vóc một nông thôn bao
la), nhưng không phải là tư tưởng chủ đạo. Xưa đã vậy mà nay càng vậy.
Người ta bảo rằng trọng nông ức thương là nguyên tắc chi phối chính
sách những nước theo đạo Khổng. Nhưng đó chỉ là một phần sự thật. Từ
thời Tần Hán đô thị Trung Quốc đã phát triển, từ Đường Tống trở đi thì
đã có vai trò của một cơ chế năng động kéo cả xã hội tiến theo.
Đô
thị phát triển nghĩa là quốc gia trở thành một đơn vị có sức kết dính
mạnh mẽ. Việc kinh doanh của thương nhân ở đây được sự hỗ trợ của trí
tuệ, giới nhà nho cũng tham gia nghề buôn, làm cho nghề này đạt tới quy
mô quốc gia và xuyên quốc gia.
Nhìn
chung trong thương trường, tư duy con người trở nên thông thoáng hơn,
năng động hơn. Giở các cuốn lịch sử tư tưởng ở Trung Quốc bao giờ tôi
cũng thấy người ta nói tới phần tư tưởng kinh tế. Thời nào, bộ phận này
trong tư tưởng xã hội Trung Hoa cũng có tiến triển.
Trong
khi ấy, nhìn lại mình thì ngược lại. Quen sống tự nhiên ở làng quê, ta
không dám tổ chức lại cuộc sống qua các đô thị. Ta làm gì cũng chỉ theo
bản năng, sự tham gia của lý trí chỉ dừng lại ở mức tối thiểu.
Là
một nước nông nghiệp nhưng cho tới lúc này, Việt Nam hầu như không có
sách nào tổng kết kinh nghiệm trồng lúa, còn nói chi tới các nghề khác.
Nghề
buôn thì lại càng bị coi thường khinh rẻ. Mọi người cho đó là nghề lừa
lọc và thường bảo nhau: "Thật thà như thể lái trâu". Bản thân người làm
nghề buôn cũng làm ăn trong thế quẩn quanh lặt vặt, sản xuất càng lụn
bại thì họ càng có cơ hội để bắt chẹt người có nhu cầu.
Ông cho rằng năng lực sản xuất và kinh doanh lại là chỉ số chủ yếu đánh giá sự phát triển xã hội?
Xét
về mặt tư duy, sản xuất và kinh doanh được là nhờ người ta có một quan
niệm rộng rãi về thế giới. Người ta theo đuổi sự hoàn hảo. Người ta làm
gì cũng chuyên nghiệp.
Cũng
là cái diều làm để chơi, nhưng diều các nước nhiều kiểu dáng kỳ lạ, còn
diều Việt Nam chỉ là mảnh giấy bồi phất vào mấy cái nan tre. Thế nên
không trách được khi người ta bảo hàng hoá Việt Nam vừa nghèo nàn đơn
điệu về mẫu mã, vừa kém về phẩm chất.
Về
tác động xã hội, bản thân truyền thống kinh doanh yếu kém là dấu hiệu
của một xã hội chưa trưởng thành. Xã hội phát triển tự nó sẽ đặt ra các
nhu cầu mới, trong khi với Việt Nam hình như chỉ cần tàm tạm là được,
cải tiến mà làm gì. Khi không có quá nhiều những nhu cầu phải thỏa mãn
thì sự phát minh, sáng chế cũng như đổi mới việc phân công lao động lại
trở thành xa xỉ.
Tóm lại ta không chuẩn bị để bước vào thế giới hiện đại.
E sợ khi bước ra với thế giới
Những hạn chế trong việc làm ăn này đã tiếp tục chi phối chúng ta trong việc làm ăn buôn bán với thế giới?
Rải
rác tôi đã thấy người ta nêu ra đủ thói xấu của ta sau khi gia nhập
WTO: e ngại, chỉ muốn đánh quả, lanh chanh kiếm chác mà lại dại dột ngớ
ngẩn dễ bị lừa, đau chết điếng đi mà không cách gì thoát nổi…
Tôi muốn mở rộng thêm mà nói rằng đây là cả một "truyền thống" của Việt Nam, thứ quán tính nó ràng buộc chúng ta từ nhiều đời.
Đọc
lịch sử sẽ thấy nền ngoại thương của Việt Nam bây giờ không khác các
thế kỷ 17-18 là bao. Thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, ở Đàng Ngoài, chúa
Trịnh nói chung cấm cửa lái buôn ngoại quốc, sợ họ vào gây náo loạn
nhân tâm. Nhưng ngồi nghĩ, lại tiếc, nên chính sách cứ khi thò khi
thụt, dùng dằng, dang dở, nay thế này mai thế khác. Mà chính sách càng
tuỳ tiện đỏng đảnh, quan lại càng dễ đi đêm để hưởng lợi.
Còn
ở Đàng Trong, tiếng rằng mở cửa – và đây là một bước tiến đáng kể so
với Đàng ngoài – nhưng toàn là người ta đến bán hàng cho mình và mang
hàng của mình đi, chứ dân ta có lái buôn chủ động vươn ra với họ đâu!
Đến
người phiên dịch dắt mối trong các vụ làm ăn này cũng thường là người
Tàu, ta không có nhân viên của mình. Quan chức quản ngoại thương chủ
yếu chỉ lo thu thuế, khi kiểm tra thương thuyền nước ngoài, thường lợi
dụng chức vụ để xin xỏ kiếm chác cho mình, bao che cho thương nhân nước
ngoài. Được lợi chút đỉnh, họ sẵn sàng bán rẻ cả quyền lợi của quốc gia.
Từ góc độ văn hoá ông cắt nghĩa hiện tượng này như thế nào?
Với
quá trình lịch sử liên miên bị đe doạ bởi ngoại xâm, người Việt quen
nghĩ rằng những tai vạ của mình là do nước ngoài mang tới. Trong mắt
ta, họ thường là là kẻ thù nhiều hơn là đối tác cùng tồn tại. Nên ta
nhìn họ với nhiều e ngại và tự dặn nhau càng ít tiếp xúc với người
ngoài càng ít càng tốt.
Ta
quen sống co lại, ít có khao khát ra với thế giới, hiểu thế giới. Trong
tiếp xúc ít có khả năng đặt mình vào địa vị người khác, không có thói
quen và kinh nghiệm quan hệ với bên ngoài, lảng tránh là hơn.
Cho
đến thời gian thế hệ chúng tôi lớn lên, tâm lý này vẫn chi phối mạnh
mẽ. "Thôi con đừng khóc chi con/ Sống nhờ đất khách, thác chôn quê
người". Đây là một câu ca dao tôi nghe thuộc lòng từ nhỏ. Về sau đọc
sách, càng thấy cái tâm lý ăn quẩn vườn nhà đã ngấm vào tâm thức của
dân mình. Người dân đồng bằng Bắc Bộ xưa thường chỉ biết đến phạm vi 20
km quanh vùng họ ở. Luôn luôn tâm niệm "ta về ta tắm ao ta", vừa ra
khỏi làng đã nước mắt ngắn nước mắt dài sùi sụt. Ngần ngại, sợ hãi…
Càng co lại ta càng đánh mất đi khả năng phát triển, càng không đủ bản lĩnh để ra với thế giới và hiểu thế giới.
Đợt
hội nhập vừa rồi là có vẻ như ta buộc phải bung ra, mở cửa, chứ thật ra
chưa chín ở bên trong. Vừa không có thói quen, vừa không chuẩn bị thích
đáng, cuối cùng ta "nhảy đại" cho xong. Chính cái đó sinh ra nhiều tệ
nạn: tâm lí đánh quả, định đi tắt đón đầu, "lừa", lách luật…
Nhìn
ở một tầng sâu hơn, có thể nói quan hệ kinh tế của Việt Nam với thế
giới trong thời gian vừa qua không dựa trên cơ sở văn hoá chắc chắn.
Đại khái thấy ai làm mình cũng làm theo, khi thất bại mới ngớ ra thì đã
muộn. Định bán hàng cho người ta nhưng không hiểu gì về lịch sử tâm lý
dân tộc cách sống của người ta, cái gu của người ta thì bán sao được?
Một xã hội chưa trưởng thành
Ông
chỉ mới giải thích những yếu kém về văn hoá liên quan đến mối quan hệ
làm ăn với nước ngoài. Nhưng một nền kinh tế không phải chỉ có chuyện
đối ngoại. Thế còn những khó khăn của kinh tế trong nước thì sao? Đâu
là những nguyên nhân về mặt văn hoá – xã hội?
Có thể hình dung xã hội Việt Nam trong quá khứ là đoàn quân tổ chức với nhiệt tình, và quyết tâm giữ nước hơn là xã hội làm ăn.
Một
xã hội chỉ phát triển được nếu biết ứng xử khôn ngoan với thiên nhiên,
vừa khai thác vừa làm giàu thêm thiên nhiên. Đằng này chúng ta quen với
tư duy hái lượm, thâu nhặt từ thiên nhiên, hơn là cấy trồng, tổ chức
sản xuất tạo ra của cải. Một ví dụ, so với đất đai, Việt Nam có tỉ lệ
bờ biển khá dài. Nhưng người Việt gần như không biết khai thác biển,
khái niệm kinh tế biển còn quá xa lạ.
Các
nhà văn đồng nghiệp của tôi thường chỉ hay nói ở Việt Nam cá nhân chưa
phát triển. Nhưng nên nhớ là cả xã hội Việt Nam cũng ở vào một tình
trạng như vậy. Cách quản lý xã hội từ xưa vẫn rất đơn sơ: thu thuế trên
đầu người chứ không phải thu thuế sản xuất và kinh doanh.
Trong
một tổng kết về chính quyền Hà Nội thời trung đại (in trong kỷ yếu hội
thảo Quản lý và phát triển Thăng Long Hà Nội tháng 3/2008), tôi thấy
người ta lưu ý là trong số các văn bản đưa ra, pháp lệnh về an ninh
chiếm tới 65,56%, trong khi chỉ 16,42% văn bản ban hành là có liên quan
tới sản xuất và kinh doanh, 8,96% liên quan tới quản lý văn hoá xã hội.
Suốt thời phong kiến vai trò tổ chức làm ăn của chính quyền hầu như
không có.
Một
xã hội phát triển là một xã hội có sự phân tầng cao và kết cấu phức tạp
mà hợp lý. Xã hội Việt Nam chỉ đang trên đường đạt tới trình độ đó.
Nói
một cách hình ảnh, nếu như xã hội chuẩn là một cánh rừng nguyên sinh
thì Việt Nam có nhiều phần giống như đồng cỏ hoang. Về mặt cá nhân con
người chúng ta còn nặng về bản năng và tự phát – người Pháp nói đó là
dạng "tư duy tiền Descartes" – trước sự duy lí. (Song đến nay cái kiểu
tư duy ít lí trí này vẫn được bênh che và tự hào, thế mới đáng sợ!)
Người
ta có câu: một người Việt Nam không thua kém một người Nhật Bản nhưng
ba người Việt Nam thì chắc chắn thua ba người Nhật Bản. Tính hợp tác,
cộng đồng của người Việt hình như là trở ngại. Trong khi đó, nhiều
người lí giải trong chiến tranh Việt Nam chiến thắng chính là tính cộng
đồng và sự đoàn kết. Liệu hai góc nhìn này có quá trái ngược và phủ
định lẫn nhau. Điều gì trong chiến tranh đã gắn kết người Việt Nam với
nhau và trong thời nay, cần phải xem xét lại yếu tố cố kết như thế nào?
Tôi
e bản thân câu "một người Việt không thua kém một người Nhật" cũng là
một nhận xét mơ hồ, có pha nhiều ảo tưởng. Không nên thảo luận về một
cảm tưởng thoáng qua và tuỳ tiện như vậy.
Còn
cái chuyện ba người Việt so với ba người Nhật thì liên quan tới cấu
trúc xã hội. Mượn cách nói của Marx có thể bảo xã hội ta còn ở tình
trạng của những bao khoai tây lủng củng. Thế nên cả nước có tới vài
chục cảng nước sâu mà không có cảng nào đạt chuẩn quốc tế. Thế nên các
đô thị hiện nay không thiếu những căn nhà đẹp nhưng không có được những
khu nhà đẹp. Nói cách khác, chất kết dính của xã hội Việt kém – kết
dính theo nghĩa nội tại, cấu trúc, chứ không phải đặt cạnh nhau mà buộc
phải sống với nhau.
Ra ngoài hớt phần váng
Chúng
ta cũng đã và đang mở cửa và ra với thế giới. Những nhân tố mới sẽ vào,
kích thích sự thay đổi, sáng tạo bên trong Việt Nam?
Trong
trường kỳ lịch sử, yếu tố bên ngoài luôn luôn đóng vai trò những cú
hích thúc đẩy sự chuyển đổi của xã hội. Có điều, các yếu tố đó thường
tác động ngoài sự kiểm soát người trong cuộc. Ta không tự nguyện đón
nhận. Nghèo là như vậy, kém phát triển, thiếu kinh nghiệm như vậy,
nhưng Việt Nam lại không biết học hỏi để chủ động phát triển.
Ông có quá lời? Bản thân người Việt Nam vẫn thường tự hào rằng chúng ta là dân tộc thông minh, cần cù, sáng tạo và ham học hỏi?
Giao
lưu văn hoá là xu thế chung của thế giới. Một nền văn hoá lớn như văn
hoá Trung Hoa luôn luôn tự hào là có thái độ chủ động tiếp xúc với bên
ngoài, lấy văn hoá ngoại lai làm giàu cho văn hoá mình, và rất nghiêm
túc trong học hỏi.
Từ
đời Đường đạo Phật của Ấn Độ đã được tiếp thu trên quy mô lớn. Triều
đình cử hẳn Đường Tam Tạng qua Ấn Độ lấy kinh và về cho dịch thật kỹ
càng thật đầy đủ. Đến Trung Hoa, đạo Phật ngoại lai có thêm một bước
phát triển mới. Người ta nói rằng nhờ học theo lối kể chuỵện trong kinh
Phật mà nghệ thuật tự sự nẩy nở dẫn đến sự ra đời của các tiểu thuyết
lớn. Từ đời Đường những điệu múa có nguồn gốc Trung Á,… đã xâm nhập
vào tận cung đình.
Nhật
Bản cũng coi việc tiếp thu nước ngoài như một cái nguồn lớn làm nên sức
sống của văn hoá mình. Riêng về sách thôi, Nhật Bản thiết lập một mối
giao lưu thường xuyên với Trung Quốc. Một con đường sách trên mặt biển
đã hình thành, được coi là tương đương với con đường tơ lụa nổi tiếng.
50-60% sách in ở Trung Quốc có bản lưu ở Nhật Bản.
Còn
Việt Nam mình thì sao? Trong các cuốn lịch sử văn hoá Việt Nam, phần
viết về sự tiếp nhận văn hoá nước ngoài thường rất đơn sơ, nhiều ngành
nghề nhiều bộ môn nghệ thuật rõ ràng học từ bên ngoài, nhưng lờ đi, coi
là ta nghĩ ra. Chỉ một vài việc buộc phải ghi nhận nhưng chỉ nói qua
loa và lúc nào cũng không quên nói thêm là chúng ta tiếp thu có sáng
tạo.
Trong
thực tế sự học hỏi diễn ra khá “tế nhị”. Từ xưa ta đã học của Trung
Hoa rất nhiều, nhưng chỉ học lỏm, bắt chước mà không nghiêm túc tuân
theo bài bản, ăn bớt bài gốc của người ta rất nhiều. Đến thời tiếp xúc
với văn hoá Tây phương, lúc đầu từ chối, sau buộc phải tiếp nhận thì
bên cạnh phần tiếp thụ sáng tạo cũng nhiều phần chỉ qua loa láng cháng,
mà tình trạng học đòi những cái lặt vặt lại diễn ra dài dài.
Quan
sát bề ngoài, người Việt Nam hôm nay thích nghi nhanh, học nhanh. Nhìn
quần áo, đầu tóc, cách nghe nhạc cách chơi xe của người Việt, nhiều
người nước ngoài phải kêu lên: sao mà Tây thế! Thế nhưng đó lại là cái
học, cái thích nghi hời hợt, dễ dãi chứ không phải tiếp nhận ở bề sâu
văn hóa. Thành ra nhiều khi chỉ hớt váng, hớt lấy cái phần hời hợt của
người và hệ quả tất yếu là những rác rưởi của thế giới đã vào quá dễ
dàng, cả rác công nghiệp và rác văn hoá.
Những
khó khăn trong việc làm ăn quan hệ với nước ngoài bắt nguồn từ chính
chúng ta. Hay dở tốt xấu cái cần cho mình cái phải xa lánh… không có
sự phân biệt. Từ chiến tranh bước ra ta chưa nhận thức đầy đủ rằng mình
là một thành phần của thế giới và trước sau sẽ phát triển theo quy luật
của thế giới. Cho đến tương lai của ta ra sao, cũng chưa ai hình dung
nổi.
Tìm cho mình những động lực lớn
Theo
cách trình bày của ông thì có vẻ như trong khi phát triển đang là
chuyện sống còn thì những điều kiện – hay là những điểm tựa – từ văn
hóa và truyền thống dân tộc lại có phần không đầy đủ. Vậy thời gian
tới, chúng ta phải làm gì?
Cũng
đã nhiều lúc tôi tự đặt cho mình câu hỏi như thế, và đến nay vẫn chưa
tìm được câu trả lời thích đáng. Chính bởi còn thắc mắc, nên tôi –
trong lúc tự xác định là phải nghiên cứu tiếp – mạnh dạn cứ “xới” vấn
đề lên như trên. Biết đâu khi phản bác tôi, các đồng nghiệp lại tìm ra
được những câu trả lời đúng. Khi đó tôi sẽ tâm phục khẩu phục!
Nếu
được nêu lên một đề nghị tổng quát cuối cùng, tôi chỉ muốn nhấn mạnh
một điều là xã hội cần có sự khai phá thay đổi trong tư duy. Thích nghi
bị động chỉ đủ để tồn tại, thay đổi một cách chủ động mới có thể phát
triển.
Trước
tiên cần đầu tư nhiều hơn vào khâu tự nhận thức. Ông Nguyễn Đình Lương
nói thẳng là nhiều khi ta không hiểu hoặc cố tình không hiểu luật chơi
thế giới. Ông Lê Đăng Doanh bảo so với thế giới chúng ta không chỉ lạc
hậu là còn lạc lõng và cái sau là đáng sợ hơn cái trước. Những gợi ý
loại đó đáng để chúng ta cùng suy nghĩ.
Điều
may mắn là chúng ta đang sống trong một thế giới thức tỉnh; bộ mặt của
thế giới bộc lộ đầy đủ hơn bao giờ hết, kể cả sự bất lực của nhân loại
trước nhiều vấn đề. Ngay những thất bại của các cộng đồng dân tộc khác
cũng đáng được nghiên cứu để nhờ thế mà ta tránh được những hy sinh vô
ích.
Sức
ép của thời đại đến với mỗi dân tộc đều đang rất lớn. Nếu biết chủ
động, đó lại là động lực thúc Việt Nam mau chóng mạnh hơn, lớn lên
nhanh hơn.
Phương Loan (VNN)