Văn hóa doanh nghiệp – Những điều cơ bản

Văn hóa – như có học giả đã nói, đó là cái cân bằng khi xã hội có nhiều nguy cơ biến động. Hoặc có thể hiểu nôm na rằng, mọi vật chất có thể mất đi, cái còn đọng lại chính là văn hóa. Bất kể quốc gia nào, tổ chức nào, giáo phái nào muốn trường tồn thì phải có văn hóa riêng, và doanh nghiệp cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong điều kiện hội nhập, cạnh tranh trên một môi trường ngày càng phẳng, văn hóa doanh nghiệp càng trở nên quan trọng.

Văn hóa doanh nghiệp hiện nay đang là đề tài tranh luận sôi nổi trên các diễn đàn của giới doanh nghiệp, các nhà quản lý và trên phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, văn hóa doanh nghiệp là gì, thì không phải doanh nghiệp nào cũng thấu hiểu, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Image
Trước hết, khái niệm văn hóa doanh nghiệp nói riêng và văn hóa nói chung là rất khó phân định, bởi có đến hàng trăm định nghĩa về văn hóa. Song, có thể hiểu văn hóa theo các cách sau: Theo bộ Từ Hải xuất bản vào năm 1989, thì văn hóa có nghĩa là Văn trị và Giáo hóa. Theo ngôn ngữ của phương Tây, thì văn hóa có nghĩa là tạo dựng, giữ gìn và chăm sóc. Trong nhân loại học và xã hội học, khái niệm văn hóa được đề cập đến theo một nghĩa rộng nhất, đó là bao gồm tất cả mọi thứ vốn là một bộ phận trong đời sống con người. Văn hóa không chỉ là những gì liên quan đến tinh thần mà bao gồm cả vật chất. Theo cách hiểu thông thường thì văn hóa là cách sống bao gồm phong cách ăn mặc, ăn uống, cư xử, đức tin và tri thức… Theo đó, có thể hiểu văn hóa doanh nghiệp như là các giá trị tinh thần, vật chất và tri thức… được xây dựng trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, trở thành quan niệm, tập quán, truyền thống của doanh nghiệp đó. Trên thế giới có một số định nghĩa văn hoá doanh nghiệp như sau:

1. Phẩm chất riêng biệt của tổ chức được nhận thức phân biệt nó với các tổ chức khác trong lĩnh vực. (Gold, K.A.)

2. Văn hóa thể hiện tổng hợp các giá trị và cách hành xử phụ thuộc lẫn nhau phổ biến trong doanh nghiệp và có xu hướng tự lưu truyền, thường trong thời gian dài. (Kotter, J.P. & Heskett, J.L.)

3. Văn hóa doanh nghiệp là những niềm tin, thái độ và giá trị tồn tại phổ biến và tương đối ổn định trong doanh nghiệp. (Williams, A., Dobson, P. & Walters, M.)

Văn hóa doanh nghiệp được thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau, từ dễ nhận biết đến ẩn sâu trong tiềm thức của tập thể mà phải qua thời gian dài mới hình dung ra được. Cấu trúc của văn hóa doanh nghiệp gồm 4 nhóm: nhóm yếu tố giá trị, nhóm yếu tố chuẩn mực, nhóm yếu tố không khí và phong cách quản lý của doanh nghiệp và nhóm yếu tố hữu hình. Trong đó, giá trị là thước đo các hành xử, xác định những gì doanh nghiệp phải làm, xác định những gì doanh nghiệp cho là đúng. Giá trị ở đây gồm 2 loại. Loại thứ nhất là các giá trị đã tồn tại trong doanh nghiệp hình thành theo lịch sử, có thể do rèn luyện có chủ đích, có thể hình thành tự phát. Loại thứ hai là các giá trị mới mà lãnh đạo mong muốn doanh nghiệp mình có để đáp ứng với tình hình mới và phải xây dựng từng bước trong thời gian dài. Chuẩn mực là những quy định không thành văn nhưng được mọi người tự giác tuân thủ. Cũng có thể xếp các yếu tố nghi lễ được sử dụng trong các sự kiện quan trọng của doanh nghiệp, logo… vào nhóm này. Không khí có thể hiểu là các ngầm định về cung cách ứng xử hàng ngày của các thành viên trong tổ chức, có thể niềm nở hay nghiêm túc, vui đùa xuề xòa hay công thức, trang trọng, giữ khoảng cách hay thân mật, ăn nói thoải mái có phần bỗ bã hay hình thức hàn lâm…. Phong cách quản lý của doanh nghiệp thể hiện ở thái độ và quyền lực của người quản lý trong việc thực hiện các mục tiêu của tổ chức. Phong cách quản lý được thể hiện theo nhiều cách khác nhau như: độc đoán, dân chủ, cứng nhắc hay mềm dẻo… Cuối cùng nhóm yếu tố hữu hình là phần nổi dễ nhìn thấy như: bàn ghế, trang thiết bị, công nghệ, máy móc, nhà xưởng, khẩu hiệu… hoặc các chuẩn mực hành vi như nghi lễ, nghi thức, các nguyên tắc, hệ thống thủ tục, chương trình…

Từ những đặc tính đó của văn hóa doanh nghiệp, hai tác giả Julie Heifetz & Richard Hagberg đã đề xuất một mô hình 11 bước cụ thể như sau:

Bước 1: Tìm hiểu môi trường và các yếu tố ảnh hưởng đến chiến lược doanh nghiệp trong tương lai. Xem xét có yếu tố nào làm thay đổi chiến lược doanh nghiệp trong tương lai.

Bước 2: Xác định đâu là giá trị cốt lõi làm cơ sở cho thành công. Đây là bước cơ bản nhất để xây dựng văn hoá doanh nghiệp. Các giá trị cốt lõi phải là các giá trị không phai nhòa theo thời gian, là trái tim và linh hồn của doanh nghiệp.

Bước 3: Xây dựng tầm nhìn mà doanh nghiệp sẽ vươn tới. Tầm nhìn chính là bức tranh lý tưởng về doanh nghiệp trong tương lai. Tầm nhìn chính là định hướng để xây dựng văn hoá doanh nghiệp. Có thể doanh nghiệp mà ta mong muốn xây dựng hoàn khác biệt so với doanh nghiệp hiện mình đang có.

Bước 4: Đánh giá văn hóa hiện tại và xác định những yếu tố văn hoá nào cần thay đổi. Sự thay đổi hay xây dựng văn hoá doanh nghiệp thường bắt đầu bằng việc đánh giá xem văn hoá hiện tại như thế nào và kết hợp với chiến lược phát triển doanh nghiệp. Đánh giá văn hoá là một việc cực kỳ khó khăn vì văn hoá thường khó thấy và dễ nhầm lẫn về tiêu chí đánh giá. Những ngầm định không nói ra hay không viết ra thì càng khó đánh giá. Thường thì con người hoà mình trong văn hoá và không thấy được sự tồn tại khách quan của nó.

Bước 5: Khi chúng ta đã xác định được một văn hoá lý tưởng và cũng đã có sự thấu hiểu về văn hoá đang tồn tại trong doanh nghiệp mình, thì sự tập trung tiếp theo là làm thế nào để thu hẹp khoảng cách giữa những giá trị chúng ta hiện có và những giá trị chúng ta mong muốn. Các khoảng cách này nên đánh giá theo 4 tiêu chí: phong cách làm việc, ra quyết định, truyền thông, đối xử.

Bước 6: Xác định vai trò của lãnh đạo trong việc dẫn dắt thay đổi văn hóa. Lãnh đạo đóng vai trò cực kỳ quan trọng cho việc xây dựng văn hoá. Lãnh đạo là người đề xướng và hướng dẫn các nỗ lực thay đổi. Lãnh đạo chịu trách nhiệm xây dựng tầm nhìn, truyền bá cho nhân viên hiểu đúng, tin tưởng và cùng nỗ lực để xây dựng. Lãnh đạo cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xua tan những mối lo sợ và thiếu an toàn của nhân viên.

Bước 7: Soạn thảo một kế hoạch hành động bao gồm các mục tiêu hoạt động, thời gian, điểm mốc và trách nhiệm cụ thể.

Bước 8: Phổ biến nhu cầu thay đổi, kế hoạch hành động và động viên tinh thần, tạo động lực cho sự thay đổi.

Bước 9: Nhận biết các trở ngại và nguyên nhân từ chối thay đổi và xây dựng các chiến lược để đối phó. Lôi kéo mọi người ra khỏi vùng thoải mái của mình là một công việc rất khó. Vì vậy người lãnh đạo phải khuyến khích, động viên và chỉ cho nhân viên thấy lợi ích của họ tăng lên trong quá trình thay đổi.

Bước 10: Thể chế hóa, mô hình hóa và củng cố sự thay đổi văn hóa. Các hành vi, quyết định của lãnh đạo phải thể hiện là mẫu hình cho nhân viên noi theo và phù hợp với mô hình văn hoá đã xây dựng. Các hành vi theo mẫu hình lý tướng cần được khuyến khích, động viên; hệ thống khen thưởng phải được thiết kế phù hợp với mô hình xây dựng văn hoá doanh nghiệp.

Bước 11: Tiếp tục đánh giá văn hóa doanh nghiệp và thiết lập các chuẩn mực mới về không ngừng học tập và thay đổi. Văn hoá không phải là bất biến vì vậy khi ta đã xây dựng được một văn hoá phù hợp thì việc quan trọng là liên tục đánh giá và duy trì các giá trị tốt và truyền bá những giá trị đó cho nhân viên mới./.

(Nguồn: rcic.vn)

John Mackey, CEO Whole Foods

 

CEO John Mackey của hãng thực phẩm Whole Foods nhận mức lương 1 USD từ năm 2006. Trong một bức thư gửi nhân viên, ông viết: “Tôi đã được một vị trí trong cuộc đời mà ở đó, tôi làm việc không phải vì tiền nữa, mà vì niềm vui trong công việc và để trả lời tốt hơn cho sự cống hiến mà tôi đang cảm nhận rõ trong trái tim mình”.

Phó thủ tướng Đức: "Tôi từng mơ là hoàng tử Việt Nam"

Báo Der Spiegel vừa có cuộc trò chuyện khá cởi mở với Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Kinh tế Đức. Cuộc trò chuyện tập trung khá nhiều vào nguồn gốc Việt Nam của ông.

Bộ trưởng Philipp Rösler, ông là người Việt Nam và được cha mẹ Đức nhận làm con lúc 9 tháng tuổi. Vậy lúc nào ông nhận ra mình không giống những người Đức khác?

Khi tôi bốn hay năm tuổi, ba tôi đặt tôi trước gương cùng ông ấy. Ông nói: "Hãy nhìn con, rồi nhìn ba – con với ba khác nhau. Nhưng dù cho điều gì xảy ra hay người ta nói cái gì thì ba là ba của con".

Lúc nhỏ có bao giờ ông bị bạn bè chọc vì vẻ bề ngoài?

Chưa bao giờ. Tôi từng mơ mình là một hoàng tử Việt Nam bị lạc. Và có đôi lúc tôi hỏi ba ở Việt Nam có hoàng tử không. Vào những năm 1980, ba tôi trả lời rằng Việt Nam đã từng có vương triều nhưng bây giờ không còn nữa.

Với bề ngoài của mình, từ khi còn thiếu niên có bao giờ ông nghĩ mình sẽ trở thành Phó thủ tướng?

Một thiếu niên có thể tưởng tượng sẽ trở thành phó thủ tướng? Tôi cảm thấy người Đức chấp nhận sự thật rằng tôi không giống "một người Đức bình thường". Lâu nay, điều này vẫn luôn xảy ra.

Người Việt Nam có tự hào với Philipp Rösler?

Những tour du lịch Việt Nam thường dừng ở văn phòng của tôi và với nhiều người Việt Nam, điều đó thật đặc biệt. Nếu một người con nuôi Đức được làm trong chính phủ Việt Nam thì bản thân người Đức cũng cảm thấy rất thích thú.

Ba ông có nói nhiều về Việt Nam?

Trong thời gian làm phi công cho quân lực Đức, cha tôi đã gặp nhiều người Việt Nam. Trong những năm 1970, ông thường sang Mỹ tập huấn và gặp những người Việt Nam được tập huấn ở đây. Chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng nhiều đến ông, cũng như đa số những người thuộc thế hệ này. Lúc đó ông chỉ có hai lựa chọn, hoặc xuống đường biểu tình phản đối hoặc giúp đỡ một cách thiết thực nhất. Ông đã chọn cách thứ hai, nhận một đứa con nuôi Việt Nam – đó là tôi.

Có bao giờ ông ước được giống một người Đức?

Không, bởi vì tôi là người Đức và luôn cảm thấy mình là người Đức. Tôi đi học trường tiểu học công giáo ở Hamburg, nơi có nhiều học sinh từ Ý và Tây Ban Nha. Sau ngày đi học đầu tiên, tôi nói với ba: "Ba, ở lớp con có nhiều học sinh nước ngoài". Và ông đã cười rất lớn.

Thủ tướng Đức Angela Merkel và phó thủ tướng Philipp Rösler


Là một bộ trưởng kinh tế, ông có làm việc theo hướng nới lỏng luật nhập cư vào Đức?

Tôi chủ trương nước Đức đi theo hướng này. Nước Đức cần những người nhập cư có chất lượng. Thật nực cười khi Đức bỏ công sức, tiền bạc để đào tạo những sinh viên nước ngoài nhưng chỉ cho phép ở
lại Đức một năm sau khi tốt nghiệp.

Có bao giờ ông gặp khó khăn trong sự nghiệp chính trị vì người ta thường nghĩ dân châu Á hiền và thân thiện?

Tại sao thân thiện lại có thể là một trở ngại?

Tại sao phải đợi đến năm 33 tuổi ông mới lần đầu tiên trở về Việt Nam?

Tôi đi bởi vì vợ nói với tôi: "Chúng ta rồi sẽ có con và em muốn có thể kể cho chúng nghe về đất nước nơi anh đã sinh ra".

Cảm xúc của ông khi đó? Giống như một du khách bình thường?

Có lẽ giống một du khách đặc biệt thích thú. Những người tôi tiếp xúc cho rằng tôi không sinh ra và lớn lên ở Việt Nam và hầu hết đều nghĩ rằng tôi là Việt kiều Mỹ về thăm quê.

Phó thủ tướng Philipp Rösler cùng vợ và hai con gái sinh đôi

Ông có biết gì về cha mẹ ruột của mình?

Không. Các sơ phải chăm đến hơn 3.000 trẻ. Họ đã phải tự nghĩ ra tên và dòng họ của ngần ấy đứa trẻ để điền vào các phiếu. Vì vậy tôi không biết bất cứ điều gì về cha mẹ ruột của mình.

Ông thích nhất ở Việt Nam điều gì?

Cảnh đẹp và thức ăn. Khi bạn ăn nhà hàng châu Á ở Đức, nó đã bị Đức hóa. Nhiều người châu Á thậm chí không đi ăn nhà hàng châu Á vì hương vị của nó không giống ở quê nhà.

Tại sao ông lại muốn là một người Đức hơn những người Đức?

Tôi không như vậy. Đơn cử như việc đã từ lâu tôi không có cờ Đức trong văn phòng của mình.

Như là việc ông thích ca sĩ Đức Udo Jürgens. Ông đặt tên hai con gái là Grietje và Gesche. Ông là thành viên của Ủy ban trung ương công giáo Đức… Ông còn hơn một người Đức, ông là người Đức mẫu mực.

Để tôi nói lại: Tôi đúng là fan của Jürgens nhưng chắc chắn không phải vì anh ta hát tiếng Đức. Và để tôi nói thêm vài bí mật – ở nhà chúng tôi không treo cờ Đức. Xe hơi riêng của tôi là một chiếc xe Pháp đơn giản là vì nó là chiếc duy nhất nó đủ chỗ để chở nôi cho hai đứa song sinh. Về tên của chúng, do vợ tôi đã đổi họ Rösler theo tôi nên cô ấy sẽ là người chọn tên cho con. Và thật ra thì cái tên Grietje nghe có vẻ Hà Lan còn Gesche nghe có vẻ frisia (một ngôn ngữ sử dụng thông dụng ở nhiều vùng tại Hà Lan và Đức) hơn.

Bộ trưởng Philipp Rösler, cám ơn ông về cuộc phỏng vấn này.

Theo Đ.K.L

Tuổi trẻ

Vì sao người Do Thái giỏi làm kinh tế ?

Vì sao người Do Thái giỏi làm kinh tế ?

Cựu chủ tịch FED Alan Greenspan là người Do Thái.

 

Karl Marx, Alan Greenspan, Paul Krugman, George Soros, Michael Bloomberg…đều là những người gốc Do Thái rất thành công.

Cả một dân tộc giỏi làm
kinh tế

Chúng
ta đều biết người Do Thái (thời cổ gọi là Hebrew) là dân tộc thành công nhất
trên nhiều lĩnh vực trí tuệ, nhưng có lẽ ít ai biết họ thực ra còn cực kỳ xuất
sắc trên mặt kinh tế, tài chính, thương mại.

Họ
đạt được những thành tựu đó trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn: toàn bộ dân tộc Do
Thái buộc phải sống lưu vong phân tán, “ăn nhờ ở đợ” suốt 2000 năm qua trên
khắp thế giới, đi tới đâu (trừ ở Mỹ) cũng bị xa lánh hoặc hắt hủi, xua đuổi,
tước đoạt, thậm chí hãm hại, tàn sát vô cùng dã man, bị cấm được sở hữu bất cứ
tài sản cố định nào như nhà đất, tài nguyên thiên nhiên ….

Chỉ
cần lướt các mạng tìm kiếm là ta có thể sưu tầm được ngay một số thành tựu cực
kỳ gây ấn tượng của người Do Thái trên lĩnh vực kinh tế, dù là về mặt lý thuyết
hay thực tiễn. Hãy xem một số số liệu sau đây:

Rất
nhiều nhà lý thuyết kinh tế hàng đầu thế giới là người Do Thái, các lý thuyết
họ xây dựng nên đã ảnh hưởng vô cùng to lớn nếu không nói là quyết định tới quá
trình trình tiến hóa của nhân loại:


Karl Marx (Các Mác) người khám phá ra “giá trị thặng dư” và xây dựng học thuyết
kinh tế chủ nghĩa cộng sản sẽ thay thế cho chủ nghĩa tư bản, được gọi là một
trong hai người Do Thái làm đảo lộn cả thế giới (người kia là Jesus Christ);


Alan Greenspan 17 năm liền được 4 đời Tổng thống Mỹ tín nhiệm cử làm Chủ tịch
Cơ quan Dự trữ Liên bang (FED, tức Ngân hàng Nhà nước Mỹ) nắm quyền sinh sát
lớn nhất trong giới tài chính Mỹ, thống trị lĩnh vực tài chính tiền tệ toàn
cầu;


Paul Wolfowitz cùng người tiền nhiệm James Wolfensohn, hai cựu chủ tịch Ngân
hàng Thế giới, tổ chức tài chính có tác dụng rất lớn đối với các nước đang phát
triển;


41% chủ nhân giải Nobel kinh tế thời gian 1901-2007 là người Do Thái (cộng 13
người), chẳng hạn Paul Samuelson (1970), Milton Friedman (1976) và Paul Krugman
(2008) … là những tên tuổi quen thuộc trong giới kinh tế thế giới hiện nay, các
lý thuyết của họ được cả thế giới thừa nhận và học tập, áp dụng…

Nhiều
nhà giàu nổi tiếng thế giới từng tác động không nhỏ tới chính trị, kinh tế nước
Mỹ và thế giới là người Do Thái. Đơn cử vài người :


Jacob Schiff, chủ nhà băng ở Đức, sau sang Mỹ định cư; đầu thế kỷ XX do căm
ghét chính quyền Sa Hoàng giết hại hàng trăm nghìn dân Do Thái ở Nga, ông đã
cho chính phủ Nhật Bản vay 200 triệu USD (một số tiền cực kỳ lớn hồi ấy) để xây
dựng hải quân, nhờ đó Nhật thắng Nga trong trận hải chiến Nhật-Nga năm 1905.
Nhớ ơn này, trong đại chiến II Nhật đã không giết hại người Do Thái sống ở
Trung Quốc tuy đồng minh số Một của Nhật là phát xít Đức Hitler có nhờ Nhật
“làm hộ” chuyện ấy.


Sheldon Adelson, người giàu thứ 3 nước Mỹ năm 2007, với tài sản cá nhân lên tới
26,5 tỷ USD.


George Soros giàu thứ 28 ở Mỹ (7 tỷ USD) nổi tiếng thế giới hiện nay về ý tưởng
đầu tư và làm từ thiện quy mô lớn.


Michael Bloomberg có tài sản riêng 5,1 tỷ USD, làm thị trưởng thành phố New
York đã 8 năm nay với mức lương tượng trưng mỗi năm 1 USD và là chủ kênh truyền
hình Bloomberg nổi tiếng trong giới kinh tế, đang được mong đợi sẽ là ứng cử
viên Tổng thống Mỹ khóa tới…

Cộng
đồng Do Thái ở Mỹ chiếm một nửa tổng số người Do Thái trên toàn thế giới là
quần thể thiểu số thành công nhất ở Mỹ dù chỉ chiếm 2,5% số dân. Khoảng một nửa
số doanh nhân giàu nhất Mỹ, 21 trong số 40 nhà giàu đứng đầu bảng xếp hạng của
tạp chí Forbes là người Do Thái, và cộng đồng Do Thái có mức sống bình quân cao
hơn mức trung bình của nước này.

Họ
nắm giữ phần lớn nền kinh tế tài chính Mỹ, tới mức người Mỹ có câu nói “Tiền
nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái”. Nhờ thế trên vấn đề Trung Đông chính phủ
Mỹ xưa nay luôn bênh vực và viện trợ Israel.

Nước
Israel nhỏ bé với hơn 5 triệu người Do Thái tuy ở trên vùng sa mạc khô cằn
nhưng nông nghiệp và các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật đều rất phát
triển, dân rất giàu, GDP đầu người năm 2003 bằng 19.000 USD. Nhờ sức mạnh mọi
mặt ấy, quốc gia nhỏ xíu này đã đứng vững được trong làn sóng hằn thù và công
kích của cả trăm triệu người A Rập xung quanh …

Nguyên nhân do đâu?


sao người Do Thái giỏi làm kinh tế trên cả hai mặt lý thuyết và thực hành như
vậy? Lịch sử đã chứng minh, yếu tố quyết định thành công của một dân tộc bắt
nguồn từ truyền thống văn hóa của dân tộc ấy.

Để
tìm hiểu truyền thống văn hóa của dân tộc này có lẽ ta cần tìm hiểu các nguyên
tắc chính của đạo Do Thái (Judaism), tôn giáo lâu đời nhất thế giới còn tồn tại
tới ngày nay và là chất keo bền chắc gắn bó cộng đồng, khiến dân tộc này giữ gìn
được nguyên vẹn nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa mặc dù phải sống phân
tán, lưu vong và bị kỳ thị, xua đuổi, hãm hại, tàn sát dã man suốt 2000 năm
qua.


thể nói, nếu không có chất keo ấy thì từ lâu dân tộc Do Thái đã bị tiêu diệt
hoặc đồng hóa và biến mất khỏi lịch sử. Đạo Do Thái là tôn giáo duy nhất thành
công trên cả hai mặt: giữ được sự tồn tại của dân tộc và hơn nữa đưa họ vươn
lên hàng đầu thế giới trên hầu hết các lĩnh vực trí tuệ.

Muốn
vậy, ta thử điểm qua vài nét về Kinh thánh của người Do Thái (Hebrew Bible) –
kinh điển này hơn 10 thế kỷ sau được đạo Ki-tô lấy nguyên văn làm phần đầu Kinh
Thánh của họ và gọi là Cựu Ước, nhằm phân biệt với Tân Ước do các nhà sáng lập
Ki-tô giáo viết. Ta cũng cần xem xét một kinh điển nữa của đạo Do Thái gọi là
Kinh Talmud, quan trọng hơn cả Cựu Ước, có đưa ra nhiều nguyên tắc cụ thể cho
tới thời nay vẫn còn giá trị về kinh doanh, buôn bán.

Trước
hết người Do Thái có truyền thống coi kiến thức trí tuệ là thứ quý nhất của con
người.

Kinh Talmud viết: Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì
mãi mãi không mất đi đâu được. Các ông bố bà mẹ Do Thái dạy con: Của cải, tiền
bạc của chúng ta đều có thể bị kẻ khác tước đoạt nhưng kiến thức, trí tuệ trong
đầu óc ta thì không ai có thể cướp nổi.

Với
phương châm đó, họ đặc biệt coi trọng việc giáo dục, dù khó khăn đến đâu cũng
tìm cách cho con học hành; ngoài ra họ chú trọng truyền đạt cho nhau các kinh
nghiệm làm ăn, không bao giờ giấu nghề. Người Do Thái có trình độ giáo dục tốt
nhất trong các cộng đồng thiểu số ở Mỹ, thể hiện ở chỗ họ chiếm tỷ lệ cao nhất
trong sinh viên các trường đại học hàng đầu cũng như trong giới khoa học kỹ
thuật và văn hóa nghệ thuật.

Thứ
hai, đạo Do Thái đặc biệt coi trọng tài sản và tiền bạc
. Đây là một điểm độc
đáo khác hẳn đạo Ki-tô, đạo Phật, đạo Nho, ta cần phân tích thêm.


lẽ sở hữu tài sản là một trong các vấn đề quan trọng nhất của đời sống loài
người, là nguyên nhân của cuộc đấu tranh giữa con người với nhau (đấu tranh
giai cấp) và chiến tranh giữa các quốc gia. Heghel, đại diện nổi tiếng nhất của
triết học cổ điển Đức từng nói: “Nhân quyền nói cho tới cùng là quyền (sở hữu)
về tài sản.” Chính Marx cũng nói: Chủ nghĩa cộng sản “là sự phục hồi chế độ sở
hữu của cá nhân trên một hình thức cao hơn”.

Rõ ràng, chỉ khi nào mọi người đều
có tài sản, đều giàu có thì khi ấy mới có sự bình đẳng đích thực, người người
mới có nhân quyền. Một xã hội có phân hóa giàu nghèo thì chưa thể có bình đẳng
thực sự. Đạo Do Thái rất chú trọng nguyên tắc làm cho mọi người cùng có tài sản,
tiền bạc, cùng giàu có.

Triết
gia Max Weber viết: “Đạo Ki-tô không làm tốt bằng đạo Do Thái, vì họ kết tội sự
giàu có.” Quả vậy, Chúa Jesus từng nói: “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn
người giàu vào nước Chúa” (Tân Ước, Mathew 19:24), ý nói ai giàu thì khó lên
thiên đường, ai nghèo thì dễ lên thiên đường hơn – qua đó có thể suy ra đạo
Ki-tô thân cận với người nghèo khổ. Nho giáo và đạo Phật lại càng khinh thường
tài sản, tiền bạc, coi nghèo là trong sạch, giàu là bẩn thỉu.

Ngược
lại Cựu Ước ngay từ đầu đã viết: “Vàng ở xứ này rất quý” (Genesis 2:12). Ý
tưởng quý vàng bạc, coi trọng tài sản vật chất đã ảnh hưởng lớn tới người Do
Thái, họ đều muốn giàu có.

Khái niệm tài sản xuất hiện ngay từ cách đây hơn
3000 năm khi vua Ai Cập bồi thường cho vị tổ phụ của bộ lạc Do Thái là Abraham,
khiến ông này “có rất nhiều súc vật, vàng bạc” (Genesis 13:2). Thượng Đế
Jehovah yêu cầu Abraham phải giàu để có cái mà thờ cúng Ngài. Thượng Đế cho
rằng sự giàu có sẽ giúp chấm dứt nạn chém giết nhau. Khi Moses dẫn dân Do Thái
đi khỏi Ai Cập cũng mang theo rất nhiều súc vật.

Những người xuất thân gia đình
giàu có hồi ấy như Jacob, Saul, David … đều được Cựu Ước ca ngợi là có nhiều
phẩm chất tốt, lắm tài năng, lập được công trạng lớn cho cộng đồng dân tộc và
đều trở thành lãnh đạo, vua chúa. Ngược lại, văn hóa phương Đông thường ca ngợi
phẩm chất của những người nghèo.

Trọng
tiền bạc là đặc điểm nổi bật ở người Do Thái.

Họ coi đó là phương tiện tốt nhất
để bảo vệ mình và bảo vệ dân tộc họ. Quả vậy, không có tiền thì họ làm sao tồn
tại nổi ở những quốc gia và địa phương họ sống nhờ ở đợ, nơi chính quyền và dân
bản địa luôn chèn ép, gây khó khăn.

Hoàn
cảnh ấy khiến họ sáng tạo ra nhiều biện pháp làm giàu rất khôn ngoan. Thí dụ
cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là sáng tạo độc đáo của người Do Thái cổ đại –
về sau gọi là hệ thống ngân hàng. Buôn bán cũng là một biện pháp tồn tại khi
trong tay không có tài sản cố định nào.

Người
ta nói dân Do Thái có hai bản năng: thứ nhất là bản năng kiếm tiền; thứ hai là
bản năng làm cho tiền đẻ ra tiền – họ là cha đẻ của thuyết lưu thông tiền tệ
ngày nay chúng ta đều áp dụng với quy mô lớn (còn ai kiếm tiền dễ hơn ngành
ngân hàng?).

Tuy
vậy, sự quá gắn bó với tiền bạc là một lý do khiến người Do Thái bị chê bai.
Bạn nào đã đọc tiểu thuyết Ai-van-hô (Ivanhoe) của Walter Scott chắc còn nhớ
mãi hình ảnh ông lão Do Thái Isaac (I-sắc) đáng thương, bố của nàng Rebeca xinh
đẹp và thánh thiện, lúc nào cũng khư khư giữ túi tiền và bị hiệp sĩ Đầu Bò nhạo
báng khinh bỉ thậm tệ. Kịch của Shakespeare đưa ra nhiều hình ảnh khiến người
ta có cảm giác người Do Thái bần tiện, ích kỷ, xảo trá. Tập quán cho vay lãi
của người Do Thái bị nhiều nơi lên án.

Hệ
thống cửa hiệu của người Do Thái ở Đức là đối tượng bị Quốc Xã Hitler đập phá
đầu tiên hồi thập niên 30. Người Đức có câu ngạn ngữ “Chẳng con dê nào không có
râu, chẳng người Do Thái nào không có tiền để dành.” Karl Marx từng viết: Tiền
bạc là vị thần gắn bó với người Do Thái; xóa bỏ chủ nghĩa tư bản sẽ kéo theo sự
xóa bỏ chủ nghĩa Do Thái.

Người
Do Thái có đóng góp rất lớn về lý thuyết và thực hành trong việc xây dựng nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Đạo
Do Thái coi làm giàu là bổn phận nặng nề của con người;
nói “nặng nề” vì người
giàu có trách nhiệm to lớn đối với xã hội: họ không được bóc lột người nghèo mà
phải chia một phần tài sản của mình để làm từ thiện. Những người Do Thái giàu
có luôn sống rất giản dị, tiết kiệm và năng làm từ thiện. Soros từng cúng 4 tỷ
USD (trong tổng tài sản 7 tỷ) cho công tác từ thiện. Không một nhà giàu Do Thái
nào không có quỹ từ thiện của mình. Từ đây có thể hiểu được tại sao cộng đồng
Do Thái lại cùng giàu có như thế.

Theo Nguyễn
Hải Hoành

Dongtac

Nguồn CafeF

Thúc đẩy văn hoá hợp tác trong tổ chức

Tặng tập thể MBA7B thân yêu của tôi!


(TuanVietNam) – Trong
môi trường làm việc có mối liên hệ như ngày nay, làm việc với người
khác chặt chẽ, sáng tạo, toàn cầu và năng suất, sẽ thúc đẩy hiệu quả
làm việc của tổ chức và cá nhân. Các nhóm được thành lập để giải quyết
những dự án cụ thể. Làm việc nhóm có thể giữa các đồng nghiệp, nhà cung
cấp, khách hàng và thậm chí cả các đối thủ cạnh tranh.


Sự
kết hợp đặc biệt theo nhóm có thể phát sinh một cách tự nhiên quanh bàn
cà phê hoặc ở hành lang. Nhưng dù nhóm hình thành ra sao, tổ chức nào
cũng phụ thuộc vào những nhóm như vậy.

Tôi đã nghiên cứu hoạt
động hợp tác cũng như tư tưởng hợp tác trong các công ty như Nokia,
Linux, Goldman Sachs và BP. Tôi thấy hầu hết các nhà quản lý và các
công ty đều ghi nhận giá trị của làm việc theo nhóm và tầm quan trọng
của việc xây dựng tư tưởng hợp tác, nhưng thực tế có nhiều người vẫn
khuyến khích thái độ làm huỷ hoại sự hợp tác.

Bất chấp những tuyên bố
hoa mĩ về hợp tác và làm việc theo nhóm, vẫn cứ có những luật bất thành
văn khuyến khích người ta tỏ ra vượt trội hơn người khác. Thay vì chia
sẻ ý kiến và bí quyết, mọi người tích luỹ kiến thức và làm việc với
nhau càng ít càng tốt. Trong nhiều công ty tôi nghiên cứu, luôn có
khoảng cách giữa những tuyên bố hợp tác và thực tế cạnh tranh.

Trong
môi trường làm việc có mối liên hệ như ngày nay, làm việc với người
khác chặt chẽ, sáng tạo, toàn cầu và năng suất, sẽ thúc đẩy hiệu quả
làm việc của tổ chức và cá nhân. Ảnh: Corbis

Làm thế nào để lấp đầy khoảng cách này? Nghiên cứu của tôi chỉ ra 4 hành động quan trọng để thúc đẩy văn hoá hợp tác:

1. Tuyển dụng để hợp tác

Các công ty có tư tưởng
hợp tác sẽ thể hiện tư tưởng đó ngay trong việc tuyển dụng. Họ tìm cách
thu hút những người có tinh thần hợp tác và không khuyến khích những
người theo chủ nghĩa cá nhân và cạnh tranh.

Lấy Goldman Sachs làm ví
dụ. Khi tuyển người từ các trường kinh doanh, các ứng cử viên có thể
được đến 60 thành viên cao cấp của công ty phỏng vấn. Chỉ cần một người
phản đối là ứng cử viên có thể thất bại. Cuộc phỏng vấn không xoay
quanh trí thông minh hay sự tập trung – chỉ cần xem điểm GMAT hay bằng
đại học là biết. Họ chỉ hỏi xem liệu tài năng, động lực và tham vọng
của các ứng viên có đi kèm với tinh thần sẵn sàng hợp tác với người
khác hay không.

Sẽ có nhiều ứng viên
nhiều tham vọng, chăm chỉ và thích làm việc độc lập và cũng sẽ có những
người nhiều tham vọng, chăm chỉ và thích hợp tác với người khác. Những
người thuộc nhóm một sẽ nhận được lời đề nghị lịch sự là nên nộp đơn
vào các công ty khác. Quá trình phỏng vấn kéo dài cũng giúp các ứng cử
viên tiềm năng tiếp xúc với khá nhiều đồng nghiệp có thâm niên.

Là một công ty lâu đời
và có lợi nhuận cao, Goldman Sachs có nhiều nguồn lực để tổ chức những
cuộc phỏng vấn và thảo luận phức tạp. Còn các công ty có nguồn lực hạn
chế hơn thì sao? Để tuyển dụng được những người có tinh thần hợp tác,
họ có thể tiến hành những bước sau:

Cân nhắc những tiêu chuẩn kĩ năng dùng để đánh giá các ứng cử viên.
Chúng đã bao gồm những đánh giá về khả năng làm việc theo nhóm, giải
quyết những mâu thuẫn và chia sẻ kiến thức chưa? Nếu chưa, bạn sẽ bỏ
sót những người có năng lực hợp tác.

Đảm bảo những người chịu trách nhiệm phỏng vấn tuyển dụng là những người có tinh thần hợp tác. Các
nghiên cứu chỉ ra rằng thậm chí những nhà quản lý có vẻ khách quan nhất
cũng có xu hướng tuyển những ứng viên phù hợp với tưởng tượng của họ.
Vì vậy nếu muốn tuyển dụng được người có khả năng hợp tác, hãy để những
người có khả năng hợp tác chịu trách nhiệm tuyển dụng.

Khi phỏng vấn, hãy đưa
ra những tình huống thực tế để xem các ứng viên phản ứng ra sao – những
phản ứng có thể cung cấp cái nhìn vô giá về mức độ hợp tác trong công
việc của họ.

2. Đưa ra các hoạt động thực tế thúc đẩy sự hợp tác

Mỗi nhân viên mới đều
mang theo cá tính, thái độ và cách ứng xử của mình vào công ty. Vì thế
việc tuyển dụng để có được sự hợp tác là rất quan trọng. Nhưng hợp tác
và cạnh tranh tồn tại song song, ít người trong chúng ta hoàn toàn hợp
tác hoặc hoàn toàn cạnh tranh.

Tùy theo môi trường mà
chúng ta có thể tăng hoặc giảm xu hướng hợp tác tự nhiên. Một người vốn
có tinh thần hợp tác làm việc trong môi trường cạnh tranh cao, có thể
tự kiềm chế cách làm việc hợp tác và hướng tới những yếu tố cạnh tranh.

Trong giai đoạn đầu mới
bắt tay làm việc, nhân viên đặc biệt nhạy cảm với các quy tắc văn hoá
ứng xử: các đồng nghiệp mới của họ ăn mặc ra sao, ứng xử như thế nào,
nói chuyện gì… Vì thế, cần cho họ thấy giá trị của việc hợp tác và
giúp họ hoà nhập vào hệ thống.

Tại Nokia, nhân viên mới
sẽ được giới thiệu với ít nhất sáu thành viên trong đội. Không chỉ là
bắt tay và nói chuyện vài câu, người mới được khuyến khích nói về bản
thân, thói quen làm việc và kĩ năng, cũng như hỏi han về các đồng
nghiệp.

Hợp tác trong nhóm rất
quan trọng nhưng hợp tác ngoài nhóm còn quan trọng hơn. Nokia coi hợp
tác là nhân tố thúc đẩy sáng tạo. Vì thế người mới cần được giới thiệu
tiếp với ít nhất sáu người khác không thuộc nhóm làm việc của mình.

Sự giới thiệu đó một mặt
thúc đẩy quan hệ làm việc và sự tin tưởng lẫn nhau; mặt khác khuyến
khích sự hợp tác cả trong và ngoài nhóm. Chỉ sau vài tuần làm việc tại
Nokia, mỗi nhân viên mới sẽ trở thành một phần trong hệ thống và hiệu
quả làm việc vượt ra ngoài khuôn khổ mỗi nhóm.

Còn các tổ chức khác, họ có thể khuyến khích sự hợp tác bằng cách:

Suy nghĩ cẩn trọng về những tuần đầu làm việc của người mới.
Người mới nên gặp ai và liên kết với hệ thống làm việc nào? Cử ra người
hướng dẫn hoặc đồng nghiệp thân thiết để giúp người mới tạo lập quan hệ
với những người quan trọng mà họ sẽ cộng tác.

Khi người mới thích nghi với nơi làm việc, họ sẽ điều chỉnh cách ứng xử cho phù hợp với môi trường xung quanh. Muốn người mới có tinh thần hợp tác trong công việc, hãy chắc chắn rằng người hướng dẫn cũng có tinh thần hợp tác.

3. Ủng hộ những người hướng dẫn

Hướng dẫn có hiệu quả
nhất trong ba trường hợp sau: (1) khi các bên cùng hướng tới việc xây
dựng một quan hệ tình nguyện, (2) khi người hướng dẫn có kĩ năng lắng
nghe tích cực và (3) khi cấp trên là người hướng dẫn và thực sự có vai
trò quan trọng trong tổ chức.

Để khiến cho việc hướng dẫn trở thành một động lực quan trọng trong sự hợp tác ở công ty, hãy:

Khuyến khích việc
hướng dẫn và đào tạo một số người thành những người hướng dẫn giỏi,
nhưng hãy khuyến khích mọi người tình nguyện tham gia vào việc hướng dẫn
.
Nghiên cứu của tôi cho thấy không có chương trình hướng dẫn chính thức
nào mà người hướng dẫn và người được hướng dẫn bắt buộc làm việc với
nhau lại thúc đẩy sự hợp tác.

Khuyến khích các cấp trên hướng dẫn những người ít kinh nghiệm hơn trong đội của họ và cả những thành viên khác đội. Điều này đưa ra một thông điệp mạnh mẽ rằng khả năng hướng dẫn được đánh giá cao trong tổ chức.

Nếu có
sự kết hợp giữa mọi người với nhau trong tổ chức, chúng ta có thể biến
ý tưởng về sự hợp tác hiệu quả và sáng tạo thành sự thật. Ảnh: Corbis

4. Đảm bảo một quá trình quản lý coi trọng sự hợp tác

Không có gì làm tổn
thương mối quan hệ giữa các đồng nghiệp hơn một quá trình quản lý coi
trọng sự thành công của cá nhân và phớt lờ thành tích chung của tập
thể. Ngược lại, sự quản lý coi trọng và ghi nhận sự hợp tác có thể củng
cố văn hoá hợp tác của toàn tổ chức.

Muốn quá trình quản lý
hướng tới thúc đẩy sự hợp tác, bản thân nó phải mang tính hợp tác và
được đánh giá bằng cách ứng xử mang tính hợp tác.

Ví dụ như
chương trình Thử thách đồng nghiệp của BP, nhấn mạnh vào thuyết cho
rằng hiệu quả gia tăng khi giám đốc và nhà quản lý chủ động học hỏi từ
việc hợp tác với những người khác.

Hơn một trăm đơn vị kinh
doanh của BP được chia thành các nhóm khoảng 12 người. Người đứng đầu
mỗi nhóm họp mặt để thảo luận và chia sẻ kinh nghiệm. Sau đó sẽ có các
cuộc đối thoại với các đồng nghiệp trong các nhóm đang gặp khó khăn.

Thay
vì những cuộc thảo luận mang tính cấp trên – cấp dưới về hiệu quả công
việc, quá trình này ở BP khuyến khích việc thảo luận mang tính hợp tác.
Thảo luận giữa những người cùng vai trò diễn ra tại tất cả các cấp
trong đơn vị. Nhân viên trong các đơn vị cũng được khuyến khích trao
đổi hợp tác với nhân viên trong các đơn vị khác.

Quá trình này khuyến
khích và đào tạo mọi người chủ động hợp tác để hỗ trợ cho hiệu quả của
người khác. Nó cũng khắc sâu vào văn hoá doanh nghiệp của BP rằng nhà
quản lý và nhân viên trong toàn công ty đều dành thời gian và sức lực
để giúp đỡ những đồng nghiệp cần sự hướng dẫn.

Các trưởng nhóm cũng
chia sẻ mục tiêu và tầm nhìn. Họ cùng nhau đề ra các mục tiêu hoạt động
cho mỗi đơn vị kinh doanh, sau đó trình bày với cấp trên để được thông
qua.

Mỗi đơn vị kinh doanh
được đánh giá không chỉ bởi hiệu quả làm việc mà còn bởi hiệu quả hợp
tác với các đơn vị khác cùng vai trò. Điều này có lợi ích gì? Sự công
bằng chung cho toàn nhóm. Một phần đáng kể trong điểm thưởng của mỗi
trưởng nhóm phụ thuộc vào hiệu quả của các đơn vị kinh doanh khác cùng
vai trò trong nhóm của họ.

Để đánh giá xem quá trình quản lý của công ty đã khuyến khích sự hợp tác như thế nào, hãy dựa trên các câu hỏi sau:

Quá trình quản lý
hiệu quả công việc của bạn có cho phép những người cùng vai trò bàn bạc
về hiệu quả công việc và học hỏi từ những người khác không?
Hay nó chỉ là một quá trình từng cấp từ trên xuống trong đó nhà quản lý và giám đốc đánh giá hiệu quả làm việc của cấp dưới?

Sản phẩm mà quá trình đem lại là gì? Trong đó có tính hợp tác không?

Việc khen thưởng là dựa trên thành tích cá nhân hay thành tích của các đơn vị riêng rẽ? Khen thưởng có cân xứng không và có cân bằng trong nhóm và giữa các nhóm hay không?

Nếu có sự kết hợp giữa
mọi người với nhau trong tổ chức, chúng ta có thể biến ý tưởng về sự
hợp tác hiệu quả và sáng tạo thành sự thật.

– Bài viết của Lynda Gratton trên Harvard Business Publishing –

  • Nguyễn Tuyến dịch. Nguồn Vietnamnet

Nâng trình độ sống để thích nghi – phát triển

Tôi vốn thích cách nhìn người Việt của Vương Trí  Nhàn. Hơi tối một chút, bi quan một chút, nhưng khá chân thực. Một lần nữa, xin mượn bài của ông để bắt đầu cho ngôi nhà mới! . Là mình dù tốt hay xấu không thể không tự biết mình được.

Happy New Year!

"Ta quen sống co lại, ít có khao khát ra với thế giới, hiểu thế giới".
 
Lịch sử ngoại xâm liên miên, người Việt quen sống co lại, ít có khao khát ra với thế giới, hiểu thế giới.

Càng
co lại ta càng đánh mất đi khả năng phát triển, càng không đủ bản lĩnh
để ra với thế giới và hiểu thế giới – nhà văn hoá Vương Trí Nhàn luận
giải quá trình phát triển của Việt Nam trong hội nhập dưới góc độ văn
hoá.

Trong sự thích nghi có sự buông trôi bất lực

Quan
sát người Việt và dân tộc Việt Nam trong cuộc sống hội nhập hôm nay,
với một người dành nhiều thời gian nghiên cứu về Việt Nam và đặc tính
dân tộc Việt, ông có ấn tượng, suy nghĩ gì?

Nhìn
lại thời gian mấy chục năm nay, dễ thấy Việt Nam sau chiến tranh đã
trải qua một quá trình, lúc chậm lúc nhanh, nhiều lúc như là quanh co,
hỗn loạn, nhưng nhìn chung đến nay đã chạm tới một cái ngưỡng và cần lo
để chuyển sang giai đoạn mới.

Đã
đến lúc chúng ta có thể tổng kết, đánh giá cả một chu kì phát triển.
Một hướng suy nghĩ là nhìn những thành công hay vấp váp về kinh tế xã
hội dưới góc độ văn hóa, bởi con người kinh tế chẳng qua cũng chỉ là
một khía cạnh của con người Việt Nam.

Từ
chiến tranh chuyển sang hoà bình, từ chỗ tách ra để làm công việc riêng
của dân tộc đến chỗ quay trở về hội nhập với thế giới, cái quá trình ấy
là cả một khúc quanh đột ngột. Tôi ngờ rằng nhiều người lớn tuổi đã
sống hết lòng với đời sống hẳn cũng chung tâm lý như tôi, đêm nằm ngẫm
nghĩ thấy thương cho chính mình và những người thân quen xung quanh,
rộng ra là thương cho cả dân tộc.

Chiến
tranh từng bòn rút tất cả sức lực, kéo cuộc sống chậm lại. Mở cửa, ta
lại lao vào làm ăn với bất cứ giá nào, sức khỏe kém đi, con cái  không
người dạy dỗ, cũng hư hỏng đi.

Nhìn cả môi trường tự nhiên lẫn môi trường xã hội đều bị xói mòn mà không khỏi xót xa.

Người
Việt xưa tới giờ khổ quá, đến khi ra với thế giới thì mắt như bị chói,
cái gì cũng thèm thuồng. Hết gồng mình lên chiến đấu nay lại gồng mình
lên để hưởng thụ. Cha mẹ cứ cái gì ngon nhất, đẹp nhất là lo dành cho
con. Trong gia đình, ta cúi mặt xuống chiều chuộng nhau mà không dám
đặt ra yêu cầu cao với nhau.

Theo
tôi, căn nguyên của cái cách ứng xử này là cảm giác tự ti, nhìn thấy
cái sung sướng vừa đến với mình nó mong manh quá, còn thế giới vẫn xa
lạ quá. Che mắt mình lại, không muốn lộ ra ở mình cái phần bất lực, bởi
tận thâm tâm, tin rằng không bao giờ đạt được cái phần nhân loại hôm
nay đã tới.

Nghịch
lý là ở chỗ do mang tâm thức tự ti đó, khi quay lại nhìn bản thân, ở
nhiều người – không ai bảo ai – sinh ra tâm lý tự huyễn hoặc. Rằng so
ra ta cũng ghê gớm lắm; rằng không có cái phần hơn hẳn thiên hạ nhưng
mình lại có cái khác: di sản thế giới (thực chất phần nhiều là di sản
thiên nhiên, đâu phải là văn hóa), văn hóa ẩm thực…

Bình
tĩnh lại để nghĩ sẽ thấy cái để Việt Nam khoe ra với thiên hạ thường
chỉ là phần trời cho mà không phải phần con người làm ra, chỉ là những
gì bản năng mà không phải là phần của trí tuệ: ta không có cuốn sách,
bức họa nào ở tầm thế giới. Trong âm nhạc, phần khó nhất của nó là hòa
âm thì nhạc Việt Nam lại kém, lấy đâu ra tác phẩm lớn.

Cái
rõ nhất và duy nhất chúng ta có thể khoe với thế giới chính là sự thích
nghi, thích nghi nên thế nào cũng tồn tại. Tôi nhớ trong Anh em
Karamazov, Dostoievski có một câu khái quát: "Tồn tại trong bất cứ điều
kiện nào là truyền thống của dòng họ Karamazov nhà ta". Người Việt Nam
cũng thế. Khó khăn đấy, nhưng chúng ta vẫn tồn tại – ta tự nhủ.


điều hôm qua trong chiến tranh nghĩ thế là cần thiết, nhưng hôm nay
không đủ nữa. Đã đến lúc đặt vấn đề là tồn tại sẽ như thế nào, thế nhỡ
sự thích nghi làm cho chúng ta mòn mỏi, kém cỏi, tầm thường và hư hỏng
đi thì sao?

Làm kinh tế bằng tư duy chiến tranh

Ông
vừa hơn một lần nói tới chiến tranh. Phải ông cho rằng đó là một trong
những nguyên nhân gần dẫn tới những khó khăn kinh tế  hiện nay? Nhưng
ba chục năm là thời gian quá dài, chiến tranh đã lùi vào dĩ vãng. Liệu
ta có nên cường điệu vai trò của nó?

Không, chả có gì là cường điệu cả. Ta đã ra khỏi cuộc chiến, nhưng lòng ta, cách sống, cách nghĩ của ta chưa ra khỏi.

Chiến
tranh cho phép người ta bất chấp quy luật miễn là được việc; chỉ lo
hiệu quả, còn cái giá của nó thì không cần biết. Trong chiến tranh,
nhất là chiến tranh ở Việt Nam, cứ chờ có những điều kiện cần và đủ thì
không ai dám làm gì. Phải liều. Phải duy ý chí. Cách làm đó nay vẫn
được ta áp dụng.

Nói
tóm lại, nếu trong chiến tranh ta phá với bất cứ giá nào thì nay ta xây
với bất cứ giá nào. Trên báo chí luôn có những tin đại loại cây cầu này
sang năm phá năm nay vẫn cứ thi công vì đã vào kế hoạch rồi, hoặc xây
nhà máy ào ào mà chả chú ý gì tới tác hại của nó với môi trường. Thì đó
là kiểu tư duy chiến tranh chứ còn gì nữa?!

Bản
thân chiến tranh Việt Nam lạ, không giống ai. Việt Nam thắng được trong
chiến tranh là nhờ chơi theo luật Việt Nam, tuy nhiên, trong làm kinh
tế, thì phải chơi theo luật chung của thế giới.

Những
suy nghĩ về chiến tranh còn thường xuyên đến với tôi, mỗi khi nghĩ tới
quốc nạn tham nhũng. Đọc cuốn "Những bước thịnh suy của các triều đại
Trung Quốc" của Cát Kiếm Hùng (nhà sử học Đài Loan) biết rằng trong
lịch sử nước này, tham nhũng ghê nhất là triều đại nhà Nguyên, một
chính quyền quân sự.

Nữa
là ở ta lại phổ biến hiện tượng coi ai giỏi chiến đấu thì cũng biết làm
kinh tế, nới lỏng luật pháp, dễ dãi với người có công và tuỳ tiện lấy
quyền lợi kinh tế trả ơn cho người góp phần tạo nên thắng lợi trong
chiến tranh… tham nhũng là tránh sao nổi.

Tâm lý tiểu nông tư duy tiểu nông

Ngoài nguyên nhân chiến tranh, để cắt nghĩa tình hình hiện thời, theo ông đâu là những nguyên nhân lịch sử văn hoá sâu xa hơn?

Trước
khi Pháp sang, "cả nước sống leo lắt trong một tình trạng thôn dã" –
tôi đọc được câu này trong một cuốn sách mới dịch in gần đây, cuốn
"Người Pháp và người An Nam bạn hay thù?" của Philippe Devillers.

Tôi
chia sẻ với cách nhìn của nguyên trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Thương
mại Việt – Mỹ, ông Nguyễn Đình Lương, rằng tâm lý tiểu nông vẫn còn ăn
sâu trong cách đi ra thế giới của người mình. Và cả cách tư duy nữa: tư
duy tiểu nông.

Tôi
trộm nghĩ, ở ta, một khi nếp sống làng xã còn ngự trị, không có triết
học ghê gớm cao xa gì tồn tại nổi, chỉ tư tưởng tiểu nông chi phối tất
cả.   

Nhìn sang nước Trung Quốc, nông thôn ở họ cũng nặng nề, sao họ vẫn phát triển tốt?


tư tưởng nông dân ở đó tuy mạnh (bắt nguồn từ tầm vóc một nông thôn bao
la), nhưng không phải là tư tưởng chủ đạo. Xưa đã vậy mà nay càng vậy.
Người ta bảo rằng trọng nông ức thương là nguyên tắc chi phối chính
sách những nước theo đạo Khổng. Nhưng đó chỉ là một phần sự thật. Từ
thời Tần Hán đô thị Trung Quốc đã phát triển, từ Đường Tống trở đi thì
đã có vai trò của một cơ chế năng động kéo cả xã hội tiến theo.

Đô
thị phát triển nghĩa là quốc gia trở thành một đơn vị có sức kết dính
mạnh mẽ. Việc kinh doanh của thương nhân ở đây được sự hỗ trợ của trí
tuệ, giới nhà nho cũng tham gia nghề buôn, làm cho nghề này đạt tới quy
mô quốc gia và xuyên quốc gia.

Nhìn
chung trong thương trường, tư duy con người trở nên thông thoáng hơn,
năng động hơn. Giở các cuốn lịch sử tư tưởng ở Trung Quốc bao giờ tôi
cũng thấy người ta nói tới phần tư tưởng kinh tế. Thời nào, bộ phận này
trong tư tưởng xã hội Trung Hoa cũng có tiến triển.

Trong
khi ấy, nhìn lại mình thì ngược lại. Quen sống tự nhiên ở làng quê, ta
không dám tổ chức lại cuộc sống qua các đô thị. Ta làm gì cũng chỉ theo
bản năng, sự tham gia của lý trí chỉ dừng lại ở mức tối thiểu.


một nước nông nghiệp nhưng cho tới lúc này, Việt Nam hầu như không có
sách nào tổng kết kinh nghiệm trồng lúa, còn nói chi tới các nghề khác.

Nghề
buôn thì lại càng bị coi thường khinh rẻ. Mọi người cho đó là nghề lừa
lọc và thường bảo nhau: "Thật thà như thể lái trâu". Bản thân người làm
nghề buôn cũng làm ăn trong thế quẩn quanh lặt vặt, sản xuất càng lụn
bại thì họ càng có cơ hội để bắt chẹt người có nhu cầu.

Ông cho rằng năng lực sản xuất và kinh doanh lại là chỉ số chủ yếu đánh giá sự phát triển xã hội?

Xét
về mặt tư duy, sản xuất và kinh doanh được là nhờ người ta có một quan
niệm rộng rãi về thế giới. Người ta theo đuổi sự hoàn hảo. Người ta làm
gì cũng chuyên nghiệp.

Cũng
là cái diều làm để chơi, nhưng diều các nước nhiều kiểu dáng kỳ lạ, còn
diều Việt Nam chỉ là mảnh giấy bồi phất vào mấy cái nan tre. Thế nên
không trách được khi người ta bảo hàng hoá Việt Nam vừa nghèo nàn đơn
điệu về mẫu mã, vừa kém về phẩm chất.

Về
tác động xã hội, bản thân truyền thống kinh doanh yếu kém là dấu hiệu
của một xã hội chưa trưởng thành. Xã hội phát triển tự nó sẽ đặt ra các
nhu cầu mới, trong khi với Việt Nam hình như chỉ cần tàm tạm là được,
cải tiến mà làm gì. Khi không có quá nhiều những nhu cầu phải thỏa mãn
thì sự phát minh, sáng chế cũng như đổi mới việc phân công lao động lại
trở thành xa xỉ.

Tóm lại ta không chuẩn bị để bước vào thế giới hiện đại.  

E sợ khi bước ra với thế giới

Những hạn chế trong việc làm ăn này đã tiếp tục chi phối chúng ta trong việc làm ăn buôn bán với thế giới?

Rải
rác tôi đã thấy người ta nêu ra đủ thói xấu của ta sau khi gia nhập
WTO: e ngại, chỉ muốn đánh quả, lanh chanh kiếm chác mà lại dại dột ngớ
ngẩn dễ bị lừa, đau chết điếng đi mà không cách gì thoát nổi…

Tôi muốn mở rộng thêm mà nói rằng đây là cả một "truyền thống" của Việt Nam, thứ quán tính nó ràng buộc chúng ta từ nhiều đời.

Đọc
lịch sử sẽ thấy nền ngoại thương của Việt Nam bây giờ không khác các
thế kỷ 17-18 là bao. Thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, ở Đàng Ngoài, chúa
Trịnh nói chung cấm cửa lái buôn ngoại quốc, sợ họ vào gây náo loạn
nhân tâm. Nhưng ngồi nghĩ, lại tiếc, nên chính sách cứ khi thò khi
thụt, dùng dằng, dang dở, nay thế này mai thế khác. Mà chính sách càng
tuỳ tiện đỏng đảnh, quan lại càng dễ đi đêm để hưởng lợi.

Còn
ở Đàng Trong, tiếng rằng mở cửa – và đây là một bước tiến đáng kể so
với Đàng ngoài – nhưng toàn là người ta đến bán hàng cho mình và mang
hàng của mình đi, chứ dân ta có lái buôn chủ động vươn ra với họ đâu!

Đến
người phiên dịch dắt mối trong các vụ làm ăn này cũng thường là người
Tàu, ta không có nhân viên của mình. Quan chức quản ngoại thương chủ
yếu chỉ lo thu thuế, khi kiểm tra thương thuyền nước ngoài, thường lợi
dụng chức vụ để xin xỏ kiếm chác cho mình, bao che cho thương nhân nước
ngoài. Được lợi chút đỉnh, họ sẵn sàng bán rẻ cả quyền lợi của quốc gia.

Từ góc độ văn hoá ông cắt nghĩa hiện tượng này như thế nào?

Với
quá trình lịch sử liên miên bị đe doạ bởi ngoại xâm, người Việt quen
nghĩ rằng những tai vạ của mình là do nước ngoài mang tới. Trong mắt
ta, họ thường là là kẻ thù nhiều hơn là đối tác cùng tồn tại. Nên ta
nhìn họ với nhiều e ngại và tự dặn nhau càng ít tiếp xúc với người
ngoài càng ít càng tốt.

Ta
quen sống co lại, ít có khao khát ra với thế giới, hiểu thế giới. Trong
tiếp xúc ít có khả năng đặt mình vào địa vị người khác, không có thói
quen và kinh nghiệm quan hệ với bên ngoài, lảng tránh là hơn.

Cho
đến thời gian thế hệ chúng tôi lớn lên, tâm lý này vẫn chi phối mạnh
mẽ. "Thôi con đừng khóc chi con/ Sống nhờ đất khách, thác chôn quê
người". Đây là một  câu ca dao tôi nghe thuộc lòng từ nhỏ. Về sau đọc
sách, càng thấy cái tâm lý ăn quẩn vườn nhà đã ngấm vào tâm thức của
dân mình. Người dân đồng bằng Bắc Bộ xưa thường chỉ biết đến phạm vi 20
km quanh vùng họ ở. Luôn luôn tâm niệm "ta về ta tắm ao ta", vừa ra
khỏi làng đã nước mắt ngắn nước mắt dài sùi sụt. Ngần ngại, sợ hãi…  

Càng co lại ta càng đánh mất đi khả năng phát triển, càng không đủ bản lĩnh để ra với thế giới và hiểu thế giới.

Đợt
hội nhập vừa rồi là có vẻ như ta buộc phải bung ra, mở cửa, chứ thật ra
chưa chín ở bên trong. Vừa không có thói quen, vừa không chuẩn bị thích
đáng, cuối cùng ta "nhảy đại" cho xong. Chính cái đó sinh ra nhiều tệ
nạn: tâm lí đánh quả, định đi tắt đón đầu, "lừa", lách luật…

Nhìn
ở một tầng sâu hơn, có thể nói quan hệ kinh tế của Việt Nam với thế
giới trong thời gian vừa qua không dựa trên cơ sở văn hoá chắc chắn.
Đại khái thấy ai làm mình cũng làm theo, khi thất bại mới ngớ ra thì đã
muộn. Định bán hàng cho người ta nhưng không hiểu gì về lịch sử tâm lý
dân tộc cách sống của người ta, cái gu của người ta thì bán sao được?

Một xã hội chưa trưởng thành

Ông
chỉ mới giải thích những yếu kém về văn hoá liên quan đến  mối quan hệ
làm ăn với nước ngoài. Nhưng một nền kinh tế không phải chỉ có chuyện
đối ngoại. Thế còn những khó khăn của kinh tế trong nước thì sao? Đâu
là những nguyên nhân về mặt văn hoá – xã hội?

Có thể hình dung xã hội Việt Nam trong quá khứ là đoàn quân tổ chức với nhiệt tình, và quyết tâm giữ nước hơn là xã hội làm ăn.

Một
xã hội chỉ phát triển được nếu biết ứng xử khôn ngoan với thiên nhiên,
vừa khai thác vừa làm giàu thêm thiên nhiên. Đằng này chúng ta quen với
tư duy hái lượm, thâu nhặt từ thiên nhiên, hơn là cấy trồng, tổ chức
sản xuất tạo ra của cải. Một ví dụ, so với đất đai, Việt Nam có tỉ lệ
bờ biển khá dài. Nhưng người Việt gần như không biết khai thác biển,
khái niệm kinh tế biển còn quá xa lạ.

Các
nhà văn đồng nghiệp của tôi thường chỉ hay nói ở Việt Nam cá nhân chưa
phát triển. Nhưng nên nhớ là cả xã hội Việt Nam cũng ở vào một tình
trạng như vậy. Cách quản lý xã hội từ xưa vẫn rất đơn sơ: thu thuế trên
đầu người chứ không phải thu thuế sản xuất và kinh doanh.

Trong
một tổng kết về chính quyền Hà Nội thời trung đại (in trong kỷ yếu hội
thảo Quản lý và phát triển Thăng Long Hà Nội  tháng 3/2008), tôi thấy
người ta lưu ý là trong số các văn bản đưa ra, pháp lệnh về an ninh
chiếm tới 65,56%, trong khi chỉ 16,42% văn bản ban hành là có liên quan
tới sản xuất và kinh doanh, 8,96% liên quan tới quản lý văn hoá xã hội.
Suốt thời phong kiến vai trò tổ chức làm ăn của chính quyền hầu như
không có.

Một
xã hội phát triển là một xã hội có sự phân tầng cao và kết cấu phức tạp
mà hợp lý. Xã hội Việt Nam chỉ đang trên đường đạt tới trình độ đó.

Nói
một cách hình ảnh, nếu như xã hội chuẩn là một cánh rừng nguyên sinh
thì Việt Nam có nhiều phần giống như đồng cỏ hoang. Về mặt cá nhân con
người chúng ta còn nặng về bản năng và tự phát – người Pháp nói đó là
dạng "tư duy tiền Descartes" – trước sự duy lí. (Song đến nay cái kiểu
tư duy ít lí trí này vẫn được bênh che và tự hào, thế mới đáng sợ!)

Người
ta có câu: một người Việt Nam không thua kém một người Nhật Bản nhưng
ba người Việt Nam thì chắc chắn thua ba người Nhật Bản. Tính hợp tác,
cộng đồng của người Việt hình như là trở ngại. Trong khi đó, nhiều
người lí giải trong chiến tranh Việt Nam chiến thắng chính là tính cộng
đồng và sự đoàn kết. Liệu hai góc nhìn này có quá trái ngược và phủ
định lẫn nhau. Điều gì trong chiến tranh đã gắn kết người Việt Nam với
nhau và trong thời nay, cần phải xem xét lại yếu tố cố kết như thế nào?

Tôi
e bản thân câu "một người Việt không thua kém một người Nhật" cũng là
một nhận xét mơ hồ, có pha nhiều ảo tưởng. Không nên thảo luận về một
cảm tưởng thoáng qua và tuỳ tiện như vậy.

Còn
cái chuyện ba người Việt so với ba người Nhật  thì liên quan tới cấu
trúc xã hội. Mượn cách nói của Marx có thể bảo xã hội ta còn ở tình
trạng của những bao khoai tây lủng củng. Thế nên cả nước có tới vài
chục cảng nước sâu mà không có cảng nào đạt chuẩn quốc tế. Thế nên các
đô thị hiện nay không thiếu những căn nhà đẹp nhưng không có được những
khu nhà đẹp. Nói cách khác, chất kết dính của xã hội  Việt  kém – kết
dính theo nghĩa nội tại, cấu trúc, chứ không phải đặt cạnh nhau mà buộc
phải sống với nhau.

Ra ngoài hớt phần váng

Chúng
ta cũng đã và đang mở cửa và ra với thế giới. Những nhân tố mới sẽ vào,
kích thích sự thay đổi, sáng tạo bên trong Việt Nam?

Trong 
trường kỳ lịch sử, yếu tố bên ngoài luôn luôn đóng vai trò những cú
hích thúc đẩy sự chuyển đổi của xã hội. Có điều, các yếu tố đó thường
tác động ngoài sự kiểm soát người trong cuộc. Ta không tự nguyện đón
nhận. Nghèo là như vậy, kém phát triển, thiếu kinh nghiệm như vậy,
nhưng Việt Nam lại không biết học hỏi để chủ động phát triển.

Ông có quá lời? Bản thân người Việt Nam vẫn thường tự hào rằng chúng ta là dân tộc thông minh, cần cù, sáng tạo và ham học hỏi?

Giao
lưu văn hoá là xu thế chung của thế giới. Một nền văn hoá lớn như văn
hoá Trung Hoa luôn luôn tự hào là có thái độ chủ động tiếp xúc với bên
ngoài, lấy văn hoá ngoại lai làm giàu cho văn hoá mình, và rất nghiêm
túc trong học hỏi.

Từ
đời Đường đạo Phật của Ấn Độ đã được tiếp thu trên quy mô lớn. Triều
đình cử hẳn Đường Tam Tạng qua Ấn Độ lấy kinh và về cho dịch thật kỹ
càng thật đầy đủ. Đến Trung Hoa, đạo Phật ngoại lai có thêm một bước
phát triển mới. Người ta nói rằng nhờ học theo lối kể chuỵện trong kinh
Phật mà nghệ thuật tự sự nẩy nở dẫn đến sự ra đời của các tiểu thuyết
lớn. Từ đời Đường những điệu múa có nguồn gốc Trung Á,… đã xâm nhập
vào tận cung đình.

Nhật
Bản cũng coi việc tiếp thu nước ngoài như một cái nguồn lớn làm nên sức
sống của văn hoá mình. Riêng về sách thôi, Nhật Bản thiết lập một mối
giao lưu thường xuyên với Trung Quốc. Một con đường sách trên mặt biển
đã hình thành, được coi là tương đương với con đường tơ lụa nổi tiếng.
50-60% sách in ở Trung Quốc có bản lưu ở Nhật Bản.

Còn
Việt Nam mình thì sao? Trong các cuốn lịch sử văn hoá Việt Nam, phần
viết về sự tiếp nhận văn hoá nước ngoài thường rất đơn sơ, nhiều ngành
nghề nhiều bộ môn nghệ thuật rõ ràng học từ bên ngoài, nhưng lờ đi, coi
là ta nghĩ ra. Chỉ một vài việc buộc phải ghi nhận nhưng chỉ nói qua
loa và lúc nào cũng không quên nói thêm là chúng ta tiếp thu có sáng
tạo.

Trong
thực tế sự học hỏi  diễn ra khá “tế nhị”. Từ xưa ta đã học của Trung
Hoa rất  nhiều, nhưng chỉ học lỏm, bắt chước mà không nghiêm túc tuân
theo bài bản, ăn bớt bài gốc của người ta rất nhiều. Đến thời tiếp xúc
với văn hoá Tây phương, lúc đầu từ chối, sau buộc phải tiếp nhận thì
bên cạnh phần tiếp thụ sáng tạo cũng nhiều phần chỉ qua loa láng cháng,
mà tình trạng học đòi những cái lặt vặt lại diễn ra dài dài.

Quan
sát bề ngoài, người Việt Nam hôm nay thích nghi nhanh, học nhanh. Nhìn
quần áo, đầu tóc, cách nghe nhạc cách chơi xe của người Việt, nhiều
người nước ngoài phải kêu lên: sao mà Tây thế! Thế nhưng đó lại là cái
học, cái thích nghi hời hợt, dễ dãi chứ không phải tiếp nhận ở bề sâu
văn hóa. Thành ra nhiều khi chỉ hớt váng, hớt lấy cái phần hời hợt của
người và hệ quả tất yếu là những rác rưởi của thế giới đã vào quá dễ
dàng, cả rác công nghiệp và rác văn hoá.

Những
khó khăn trong việc làm ăn quan hệ với nước ngoài bắt nguồn từ chính
chúng ta. Hay dở tốt xấu cái cần cho mình cái phải xa lánh… không có
sự phân biệt. Từ chiến tranh bước ra ta chưa nhận thức đầy đủ rằng mình
là một thành phần của thế giới và trước sau sẽ phát triển theo quy luật
của thế giới. Cho đến tương lai của ta ra sao, cũng chưa ai hình dung
nổi.

Tìm cho mình những động lực lớn

Theo
cách trình bày của ông thì  có vẻ như trong khi phát triển đang là
chuyện sống còn thì  những điều kiện – hay là những điểm tựa – từ văn
hóa và truyền thống dân tộc lại có phần không đầy đủ. Vậy thời gian
tới, chúng ta phải làm gì?

Cũng
đã nhiều lúc tôi tự đặt cho mình câu hỏi như thế, và đến nay vẫn chưa
tìm được câu trả lời thích đáng. Chính bởi còn thắc mắc, nên tôi –
trong lúc tự xác định là phải nghiên cứu tiếp – mạnh dạn cứ “xới” vấn
đề lên như trên. Biết đâu khi phản bác tôi, các đồng nghiệp lại tìm ra
được những câu trả lời đúng. Khi đó tôi sẽ tâm phục khẩu phục!

Nếu
được nêu lên một đề nghị tổng quát cuối cùng, tôi chỉ muốn nhấn mạnh
một điều là xã hội cần có sự khai phá thay đổi trong tư duy. Thích nghi
bị động chỉ đủ để tồn tại, thay đổi một cách chủ động mới có thể phát
triển.

Trước
tiên cần đầu tư nhiều hơn vào khâu tự nhận thức. Ông Nguyễn Đình Lương
nói thẳng là nhiều khi ta không hiểu hoặc cố tình không hiểu luật chơi
thế giới. Ông Lê Đăng Doanh bảo so với thế giới chúng ta không chỉ lạc
hậu là còn lạc lõng và cái sau là đáng sợ hơn cái trước. Những gợi ý
loại đó đáng để chúng ta cùng suy nghĩ.

Điều
may mắn là chúng ta đang sống trong một thế giới thức tỉnh; bộ mặt của
thế giới bộc lộ đầy đủ hơn bao giờ hết, kể cả sự bất lực của nhân loại
trước nhiều vấn đề. Ngay những thất bại của các cộng đồng dân tộc khác
cũng đáng được nghiên cứu để nhờ thế mà ta tránh được những hy sinh vô
ích.

Sức
ép của thời đại đến với mỗi dân tộc đều đang rất lớn. Nếu biết chủ
động, đó lại là động lực thúc Việt Nam mau chóng mạnh hơn, lớn lên
nhanh hơn.

Phương Loan (VNN)

Vương Trí Nhàn: "Dân tộc Việt là khối tự phát khổng lồ"

Hãy đọc để hiểu cách tư duy của người Việt. Phải chăng chúng ta chưa đủ sâu sắc để trở thành dân tộc tiến bộ?

Người Việt duy tình, cạn nghĩ, ăn xổi

"Tôi không coi duy tình là một niềm tự hào. Trái lại, ta phải tính để vượt lên một trình độ sống khác". Ảnh: ZAIZAI

Suốt tuần nay, dư luận ầm ĩ xung quanh sự kiện 1 diễn viên trẻ bị đưa chuyện phòng the lên mạng. Từ góc độ một người nghiên cứu văn hóa, nhận định của ông về việc này ra sao?

Có hai hiện tượng để nhìn nhận.

Thứ nhất, việc tự quay phim ghi lại chuyện ân ái của mình, chứng tỏ một bộ phận lớp trẻ hiện nay có lối sống khá bế tắc, bất cần, muốn vượt ra ngoài các lề thói đạo đức thông thường.

Thứ hai, việc dư luận sôi sục lên trước sự kiện ấy, chứng tỏ chúng ta có một đám đông rất nhạy cảm, dễ bị kích động. Song tôi dự đoán, rồi cũng giống như một vài vụ trước, như vụ các cô dâu lấychồng Đài Loan, Hàn Quốc, nó chỉ là hiệu ứng lửa rơm.

Lối sống thác loạn của một bộ phận giới trẻ không phải bây giờ mới có. Chờ nó được đưa ra sân chơi công cộng, mới nảy sinh "làn sóng" chú ý, mổ xẻ, lên án nó thì muộn quá rồi còn gì. Lẽ ra với một thái độ kiên trì và bình tĩnh, chúng ta phải mang ra bàn bạc từ lâu, vừa bàn vừa lắng nghe và chờ đợi. Cả buông xuôi lẫn nóng vội ở đây đều vô nghĩa, nếu không muốn nói là có hại.

Tức là, theo ông, hiện tượng dư luận ồn ào quá mức xung quanh một chuyện cá nhân là bất thường?

Không hẳn bất thường. Như người ta vẫn nói, nước mình nó thế. Từ thuở chỉ quanh quẩn trong các làng xã, chúng ta vẫn có lối phản ứng như vậy. Nó là một đặc điểm của tính cách người Việt.

Tôi nhớ, trong một bài báo gần đây, ông Trần Ngọc Thêm (nhà nghiên cứu văn hoá – PV) có nói: Đặc điểm tính cách, người Tây là duy lý, người Tàu là duy ý chí còn người Việt là duy tình. Chữ tình, nói theo chữ của ông Thêm, là lối sống giàu tình cảm, trọng tình nghĩa của người Việt.

Nhiều người cũng nghĩ như ông Thêm.

Phần tôi, tôi cho rằng chỉ nên nói đặc điểm người Việt là tính tự phát rất lớn, thường là những cơn xúc cảm bùng lên, song không trải qua những suy ngẫm nên sẽ qua đi nhanh.

Tức, tôi không coi duy tình là một niềm tự hào. Trái lại, ta phải tính để vượt lên một trình độ sống khác.

Cụ thể hơn, theo ông, "sự duy tình" có những điểm nào không đáng để tự hào?

Cả sự kém duy lý (vận dụng đến cùng trí tuệ) và kém duy ý chí (sự thôi thúc của tham vọng) đều góp phần kìm hãm sự phát triển của chúng ta.

Kém lý trí dẫn đến nông nổi, cạn nghĩ. Kém ý chí dẫn đến ngắn hơi, ăn xổi. Cái gọi là duy tình rút lại là đồng nghĩa với bột phát, tùy tiện, lúc thế này lúc thế khác, và thường không dẫn đến sự sáng suốt cùng những quyết sách hợp lý, nhất là trong xã hội hiện đại.

Như trong câu chuyện phần trên chúng ta vừa nói: cả các bạn trẻ hiện nay cũng sống truồi theo cảm hứng tự phát, không nghĩ đường xa. Mà dư luận cũng tự phát, ầm ĩ đấy rồi cũng bỏ qua ngay đấy.

Đằng sau nó là những nguyên nhân sâu xa…

Dân tộc Việt là một khối tự phát khổng lồ

"Người Việt ít đặt vấn đề dụng công nghiên cứu cái gì cho sâu, cho kỹ". Ảnh: ZAIZAI

Vậy là, từ một hiện tượng ồn ào trong dư luận hiện nay, ông muốn lưu ý tới những nguyên nhân sâu xa. Liệu có gượng ép quá không?

Tôi không ngại, miễn là chúng ta cùng lắng nghe nhau một chút.

Nhưng, liệu cách nhìn nhận của ông về cốt cách sống của dân mình quá cực đoan và khắt khe? Người Việt xưa nay vẫn tự hào là một dân tộc hiếu học, thông minh và có sức chịu đựng, bền bỉ?

Các phương tiện truyền thông và cả bản thân chúng ta vẫn thường tự ve vuốt mình bằng những nhận định như mấy chữ bạn đã dùng.

Còn tôi, sau một giai đoạn nghiên cứu về văn hoá và tính cách Việt, tôi mạnh dạn sử dụng hì
nh ảnh “một khối tự phát khổng lồ".

Nói vậy có thể gây tự ái cho ai đó và có thể gây tranh cãi. Ngay như bản thân tôi, cũng đã nhiều lần tự tìm cách phủ định nó, nhưng hiện tại tôi vẫn chưa tìm ra được dẫn chứng phủ định thuyết phục.

Người Việt ít đặt vấn đề dụng công nghiên cứu cái gì cho sâu, cho kỹ. Chúng ta tự cho phép sống theo thói quen, nếu như có nói đến các lý thuyết, các định hướng nọ kia thì chủ yếu là đi thừa hưởng các kết quả nghiên cứu từ các dân tộc khác. Thêm nữa, chỉ treo lý thuyết lên gọi là có, chứ vẫn sống theo cách của mình.

Tôi ví dụ, đơn giản nhất là trong đời sống tôn giáo. Với đạo Phật, chúng ta hiểu biết lơ mơ. Về tất cả các lý thuyết, hầu như không nghiên cứu gì cả, chỉ toàn là truyền miệng với nhau, trong tu thì chỉ "thiền", "ngộ", tức là ngồi để tự nhiên nghĩ ra cái gì đấy.

Tôi nghĩ lối sống này làm nghèo chúng ta đi, từ sự trống vắng, kết quả thu được cũng chẳng gì hơn cũng là trống vắng. Trong khi ấy, thử so sánh, người Trung Quốc có không biết bao nhiêu pho kinh, chẳng hạn như ông Huyền Trang sang tận Ấn Độ lấy về, dịch ra, họ đã mang lại cho đạo Phật một sức sống mới.

Bàn một chút về đặc điểm tính cách dân tộc. Theo ông, có những nguyên nhân nào tác động đến điều này?

Khi nhìn vào những ngổn ngang trong đời sống trước mắt, nhiều người có ý cho rằng đó là bởi các lý thuyết mà chúng ta theo đuổi, chẳng hạn lý tưởng cộng sản… này khác. Tôi thì lại thấy những nguyên nhân sâu xa cơ bản là nằm trong cái cốt cách mà dân tộc đã hình thành trong lịch sử.

Hiểu rõ nguồn gốc dân tộc, sự hình thành của dân tộc mình là một trong những cách để nhận chân lại mình.

Nói một cách thô thiển nhất thì như thế này: mỗi khu vực địa lý tạo ra một giống người với đặc điểm riêng của họ.

Chúng ta là người xứ nóng, vùng nhiệt đới được thiên nhiên ưu đãi, nên một mặt dễ sống, một mặt khác, nó tạo cho ta tính dễ dãi.

Người xứ nóng thường có cuộc sống đơn giản. Trước đây, thời các cụ, chẳng cần có quần áo cũng tồn tại được. Ngay trước Cách mạng tháng Tám, dân ta còn rất nhiều người đi chân đất.

Trong khi đó, người xứ lạnh, thời tiết khắc nghiệt đòi hỏi họ phải chuẩn bị cho cuộc sống cẩn thận hơn. Ngay từ ngôi nhà, đến ăn mặc phải bền chắc hơn, có sức chịu đựng hơn… Tất cả những điều này ảnh hưởng một cách vô thức đến tính cách dân tộc.

"Nuôi dưỡng ảo tưởng"

Sau những nguyên nhân ban đầu ấy, mọi chuyện đã phát triển ra sao?

Một công cụ để một dân tộc nào đó tư duy, là chữ viết. Việc không hình thành cho được một thứ chữ viết riêng mang lại cho chúng ta rất nhiều hạn chế. Chính nó khuyếch đại thêm cái khía cạnh nông nổi tự phát mà chúng ta nói từ đầu.

Thời trung đại việc dùng chữ Hán đã mang lại cho chúng ta bao thiệt thòi. Rồi sau này, do lịch sử đổi thay, lại dùng chữ hệ Latinh. Lâu nay người ta chỉ thích nhấn mạnh rằng chữ Latinh góp phần thúc đẩy xã hội tiến tới. Tôi cũng thấy thế, nhưng lưu ý thêm chữ quốc ngữ càng làm cho chúng ta cẩu thả trong nói và viết. Nếp tư duy hời hợt lan rộng.

Việt Nam, xét trong lịch sử, là một nước trải qua khá nhiều các cuộc chiến tranh. Yếu tố này có góp phần ảnh hưởng đến cái gọi là tính cách dân tộc không, theo ông?

Tất nhiên rồi. Trên nét lớn, chiến tranh ở ta còn để lại dấu vết nặng nề và càng lảng tránh nó, chúng ta càng bị nó ám.

Không cần có kinh nghiệm nhiều thì người ta cũng có thể biết chiến tranh là tình trạng ăn xổi, ở thì, lúc đó, trong khi sống với những mơ tưởng xa vời, thực tế là người ta lại chả biết rõ ràng ngày mai của mình như thế nào.

Cụ thể hơn, 2 cuộc chiến lớn của dân tộc trong thế kỷ vừa qua, để lại dấu ấn như thế nào trong đời sống tinh thần người Việt?

Chuyện lớn quá, cho phép tôi chỉ nói một điểm có tính cách xuất phát: phải nói chính ra chiến tranh nuôi dưỡng ảo tưởng. Ta không biết rõ ta đã trở nên như thế nào. Ta tưởng rằng, sau chiến tranh, mình còn nguyên vẹn, nhưng thực ra mình đã mất mát rất nhiều. Nhìn vào nhiều mặt đời sống, tôi cảm thấy so với trước chiến tranh, có một bước lùi. Con người ít tham vọng hơn, dễ dãi với mình hơn mà lại buông thả hơn.

Ông có cực đoan quá không? Có nhiều ý kiến cho rằng, chính cuộc chiến này đã khơi dậy, đánh thức được tiềm năng của các thế hệ?

Tôi cho rằng, nhận định đó là đúng nhưng chưa đủ, khi nói vậy chúng ta chưa thấy hết sự thực. Cuộc kháng chiến chống Pháp còn vừa sức với dân tộc ta. Còn cuộc chiến chống Mỹ ư? Với tư cách một người vừa lớn lên thì bước vào chiến tranh, tôi muốn nói rằng nó to lớn vĩ đại, nó kinh khủng quá, nó hút hết sức lực của cộng đồng. Chiến tranh ở ta như việc một người nhỏ bé phải đối mặt với một thách thức quá sức. Vẫn làm được đấy, nhưng sau đó sẽ mệt mỏ
i, một sự mệt mỏi kéo dài cho đến hôm nay.

Việc nghiên cứu tính chất của xã hội hậu chiến ở ta ít được xem trọng. Nhưng nhìn đâu cũng thấy.

Cả việc lớp trẻ lao đầu vào cuộc hưởng thụ lẫn một dư luận xốc nổi, khi quá khắt khe khi quá dễ dãi, tức là câu chuyện mà chúng ta nói từ đầu đến giờ, cũng là hiện tượng thường thấy ở các xã hội hậu chiến.

Phần 2: Giới trẻ trong "khối tự phát"

Hoàng Lê (thực hiện)

Nguồn: Vietnamnet